BSR: Nỗ lực vì mục tiêu phát triển bền vững ngành lọc hóa dầu Việt Nam
Trải qua nhiều thách thức, BSR – đơn vị chủ quản của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã vững vàng phát triển nhờ hàng loạt giải pháp kỹ thuật sáng tạo. Các thành quả này không chỉ giúp công ty giảm thiểu chi phí mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững cho ngành lọc hóa dầu Việt Nam.
Thành quả đáng ghi nhận
Từ khi NMLD Dung Quất đi vào vận hành đến nay, Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) đã chế biến trên 100 triệu tấn dầu thô; sản xuất và xuất bán ra thị trường hơn 91 triệu tấn sản phẩm, đáp ứng trên 30% nhu cầu xăng dầu của cả nước; tổng doanh thu đạt gần 1,6 triệu tỷ đồng và nộp ngân sách Nhà nước gần 224 nghìn tỷ đồng (tương đương hơn 9 tỷ USD) gấp 3 lần mức đầu tư. BSR đã đóng góp đáng kể vào doanh thu, lợi nhuận của Petrovietnam và ngân sách tỉnh Quảng Ngãi.
BSR cũng thể hiện vai trò quan trọng là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ liên quan đến nguồn cung xăng dầu, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và cung cấp nhiên liệu đặc chủng cho quốc phòng. Đến nay, BSR đã đánh giá 89 loại dầu thô tiềm năng cho Nhà máy và đã chế biến thử nghiệm thành công 32 loại dầu thô trong, ngoài nước thay thế một phần dầu thô Bạch Hổ đang giảm dần và cũng đánh giá được thêm 2 loại nguyên liệu trung gian mới (SR LSFO và VGO) để đưa vào chế biến.
Ngày 9/5/2008, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn được thành lập để tiếp nhận, quản lý, vận hành NMLD Dung Quất. BSR tự hào là thành tố quan trọng trong 5 lĩnh vực cốt lõi của Petrovietnam, đó là: Thăm dò khai thác dầu khí, lọc - hoá dầu, công nghiệp khí, công nghiệp điện và dịch vụ dầu khí chất lượng cao.
Sự lớn mạnh của BSR không chỉ được thể hiện trong ngành Dầu khí mà còn là vị thế đứng trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2023, BSR là doanh nghiệp đứng thứ 4 trong Top 500 doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhất Việt Nam và được tổ chức Fitch Ratings xếp hạng tín nhiệm ở mức BB+ với “Triển vọng ổn định”.
BSR không chỉ khẳng định là doanh nghiệp hàng đầu của Petrovietnam mà còn là doanh nghiệp chủ chốt của tỉnh Quảng Ngãi. Kể từ khi đưa vào hoạt động, NMLD Dung Quất đã có nhiều tác động lớn đến kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi và khu vực miền Trung -Tây nguyên như góp phần phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng; liên kết ngành, vùng, hỗ trợ phát triển du lịch, dịch vụ; logistics, vận tải hàng hóa và kinh tế biển; phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp phụ trợ gắn với các sản phẩm lọc hóa dầu, năng lượng; thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài;… Khu kinh tế Dung Quất đã có những bước phát triển mạnh mẽ, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của NMLD Dung Quất.
Với những nỗ lực mạnh mẽ của tập thể ban lãnh đạo, người lao động, trong nhiều năm qua BSR đã giữ được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận tốt. Số liệu 6 tháng đầu năm 2024 cho thấy, BSR hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu Kế hoạch sản xuất kinh doanh và Kế hoạch quản trị 6 tháng đầu năm. Theo đó, BSR đã sản xuất được 2,85 triệu tấn sản phẩm (tiêu thụ 2,75 triệu tấn), đạt 119% so với kế hoạch; tổng doanh thu 55,3 nghìn tỷ đồng, đạt 139% so với kế hoạch; nộp ngân sách nhà nước hơn 5,7 nghìn tỷ đồng, đạt 131% so với kế hoạch và lợi nhuận vượt kế hoạch đề ra.
Nổi bật trong 6 tháng đầu năm 2024, BSR đã thực hiện thành công và hoàn thành công tác bảo dưỡng tổng thể lần 5 NMLD Dung Quất; thử nghiệm thành công tăng công suất phân xưởng CDU lên 118%, RFCC lên 110%, KTU lên 140% công suất thiết kế; thử nghiệm chế biến dầu thô mới Bunga Orkid với 20 %vol và sản xuất thành công 500 tấn sản phẩm mới hạt nhựa PP định hình nhiệt TF4035. NMLD Dung Quất đang hoạt động ổn định ở công suất tối ưu. Chỉ số hiệu quả sử dụng năng lượng (EII) của Nhà máy đã thấp hơn 100% lần đầu tiên kể từ khi đi vào vận hành, cho thấy sự nỗ lực vượt bậc của BSR trong việc tối ưu hóa hoạt động sản xuất và tiết kiệm năng lượng.
Chỉ số hiệu quả sử dụng năng lượng (EII) của NMLD Dung Quất đã thấp hơn 100% lần đầu tiên kể từ khi đi vào vận hành.
Được biết, hiện BSR đang tích cực triển khai Dự án Nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất và quyết tâm, nỗ lực phấn đấu để tiếp tục đạt được những thành tựu mới trên chặng đường phát triển mới. Chiến lược phát triển của BSR đến năm 2030, tầm nhìn 2045 là xây dựng và phát triển BSR - đóng vai trò nòng cốt trong việc hình thành Trung tâm lọc hoá dầu và năng lượng Quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất; góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, nộp ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững của Petrovietnam và đóng góp tích cực vào việc đạt được các mục tiêu cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.
Mô hình tăng trưởng mới của BSR trong thời gian tới sẽ lấy lọc hóa dầu làm nền tảng với sự đột phá về kinh doanh và đầu tư. Thực hiện phương châm quản lý điều hành “Quản trị biến động, làm mới động lực cũ, bổ sung động lực mới, tạo nguồn năng lượng mới, vươn tới những đỉnh cao” và triển khai có hiệu quả 8 nhóm động lực, giải pháp mà Tập đoàn đã chỉ đạo.
Cảng xuất sản phẩm NMLD Dung Quất.
'Đột phá từ nội lực' - Tiết giảm hàng triệu USD
BSR cho biết, hiện NMLD Dung Quất có hàng nghìn giải pháp vừa nâng cao hiệu suất làm việc của thiết bị vừa tiết giảm năng lượng. Các giải pháp thường xuyên áp dụng như giải pháp về thu hồi nhiệt thải; giải pháp thu hồi nhiệt; giải pháp nâng cao hiệu suất sản xuất điện; nâng cao hiệu suất nồi hơi, giảm sử dụng khí nhiên liệu…
Những giải pháp nổi bật những năm gần đây, đó là đưa hệ thống biến tần cho động cơ PM-5207A vào hoạt động và đã tiết kiệm được hơn nửa triệu kWh. Một giải pháp khác là “Tối ưu hóa công tác vận hành bằng cách tối ưu hóa các phụ tải nhận nguồn từ hệ bơm, máy nén làm việc song song mà vẫn đảm bảo độ ổn định, tin cậy cho các hệ phụ tải”. Với giải pháp này, lượng năng lượng đã tiết kiệm/năm là hơn 26 triệu kWh điện.
Ngày 21/8, Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) đã nộp hồ sơ đăng ký niêm yết 3,1 tỷ cổ phiếu BSR lên Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM (HoSE), tương ứng số vốn điều lệ hiện tại hơn 31.000 tỷ đồng.
Với mức vốn hóa lên đến 74.700 tỷ đồng (xếp thứ 21 nếu đem so sánh với các công ty trên HoSE tại ngày 16/08/2024), khi được chấp thuận chuyển sàn sang niêm yết tại HoSE, BSR sẽ trở thành một cổ phiếu blue-chip và kỳ vọng lọt vào rổ VN30 trong tương lai không xa.
Đặc biệt, giải pháp “Tối ưu chế độ vận hành cho hệ thống làm mát bằng nước biển” là một trong những giải pháp kỹ thuật được áp dụng gần đây nhằm giúp gia tăng hiệu suất làm việc của thiết bị, vừa tiết kiệm năng lượng toàn Nhà máy. Giải pháp này có giá trị lớn về mặt kỹ thuật và giá trị làm lợi.
Với giải pháp tối ưu chế độ vận hành cho hệ thống bơm nước biển (chế độ 3 bơm thay vì 4 bơm) đã đem lại hiệu quả kinh tế to lớn. Công suất tiêu thụ điện năng của hệ thống bơm nước biển làm mát giảm khoảng 1.664 KW từ mức 7.953 KW với chế độ vận hành 4 bơm xuống còn 6.289 KW khi vận hành chế độ 3 bơm.
Giải pháp được áp dụng từ ngày 12/1/2021, tổng thời gian áp dụng cho năm 2021 là 309 ngày, tiết kiệm khoảng 1,9 triệu USD/năm (đã loại bỏ các ngày chạy 4 bơm), tổng số điện tiết kiệm là 12,34 triệu kWh/năm. Trong năm 2022, công trình đang áp dụng liên tục và số tiền tiết kiệm khoảng 44 tỷ đồng. Trong năm 2023 và thông số ghi nhận 9 tháng 2024, theo nhóm nghiên cứu, giải pháp đã tiết kiệm năng lượng quy dầu đạt 3.043 tấn dầu FO/năm, tương đương mức giảm phát thải CO2 là 9.828 tấn/năm; giảm EII là 0,560939%; giá trị làm lợi đạt hơn 1,82 triệu USD/năm.
Không chỉ trong vận hành, trong đợt bảo dưỡng tổng thể lần 5 năm 2024, BSR triển khai 02 dự án lắp mới thiết bị trao đổi nhiệt để tận dụng nhiệt thải từ các dòng công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính cho BSR.
Dự án thứ nhất là lắp đặt thiết bị trao đổi nhiệt dạng Shell-Tube tại phân xưởng CDU, công suất trao đổi nhiệt 3MW, thu hồi nhiệt từ dòng sản phẩm LGO có nhiệt độ cao khoảng 120oC để gia nhiệt cho dòng nguội Full Range Naphtha 50oC đến tháp Naphtha Stabilizer.
Dự án thứ hai là lắp bổ sung thiết bị trao đổi nhiệt dạng tấm tại phân xưởng Thu hồi Nước ngưng, công suất trao đổi nhiệt 4,2 MW, thu hồi nhiệt từ dòng nước ngưng có nhiệt độ cao khoảng 148oC để truyền nhiệt cho dòng nước khử khoáng và giảm nhiệt độ xuống còn 100oC.
Hai dự án này giúp tiết kiệm năng lượng quy đổi khoảng 1.000 tấn dầu FO mỗi năm, tương đương giảm Opex khoảng 12 tỷ đồng/năm. Đồng thời hai dự án này góp phần giảm chỉ số EII của Nhà máy khoảng 0,3-0,4 đơn vị và giúp giảm phát thải khí nhà kính khoảng 3.200 tấn CO2/năm. Đây là 02 dự án cải tiến nằm trong lộ trình giảm phát thải khí nhà kính của BSR.
Chia sẻ về tiết kiệm năng lượng, ông Lê Hải Tuấn - Trưởng ban Nghiên cứu Phát triển BSR cho biết, nhiều năm qua, BSR áp dụng hơn 70 giải pháp cải tiến kỹ thuật giúp cải thiện rõ rệt hiệu quả sử dụng năng lượng trong toàn NMLD Dung Quất. Cụ thể, chỉ số cường độ tiêu thụ năng lượng - Energy Intensive Index (EII), đặc trưng cho hiệu quả sử dụng năng lượng của Nhà máy, giảm đáng kể từ mức 118% trước năm 2015 xuống mức 104% -106% trong các năm 2020 - 2023, và giảm xuống khoảng 100% sau đợt Bảo dưỡng tổng thể Nhà máy tháng 3-4/2024. Tiêu thụ năng lượng nội bộ tương ứng giảm từ trên 7,4% xuống còn 6,8%. Theo báo cáo đánh giá của Tổ chức Solomon, giảm được 1% chỉ số EII tương đương tiết kiệm được khoảng 2,6 triệu USD/năm.
Thực hiện chiến lược tiết kiệm năng lượng trong NMLD, bắt đầu từ năm 2015, BSR đã triển khai thực hiện thay thế các loại đèn truyền thống bằng đèn LED tiết kiệm điện, cụ thể đã thay thế 5.095 bộ đèn huỳnh quang bằng hệ thống đèn LED trong phạm vi toàn bộ Nhà máy. Tổng lượng điện tiết kiệm hàng năm là hơn 1 triệu kWh điện sau khi thay bằng đèn LED.
Chủ tịch HĐQT BSR Nguyễn Văn Hội.
Tiết kiệm năng lượng trong đó có tiết kiệm điện là một trong những hạng mục năng lượng trọng yếu tại BSR. Năm 2023, BSR tự sản xuất 403.739 MWh điện, nhập từ EVN 1.322 MWh điện, lượng điện tiết kiệm được là khoảng 27.886 MWh điện, chiếm khoảng 6,91% tổng lượng điện sử dụng tại BSR. Năm 2024, lượng điện BSR tiết kiệm sẽ phấn đấu cao hơn số liệu thống kê năm 2023.
"Trong bối cảnh khó khăn, BSR triển khai nhiều nhóm giải pháp để vượt qua. Trong đó có việc tiết giảm chi phí nhờ đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, áp dụng sáng kiến, sáng tạo vào sản xuất kinh doanh. Nhờ các sáng kiến, sáng tạo, BSR đã tiết kiệm được hàng chục triệu USD từ việc giảm hao hụt dầu thô trong chế biến. Các giải pháp sáng tạo khác cũng giúp BSR tiết kiệm hàng chục triệu USD" - Chủ tịch HĐQT BSR Nguyễn Văn Hội cho biết.
Bên cạnh đó, BSR tích cực áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng điện tại các tòa nhà hành chính như sử dụng điều hòa nhiệt độ khi cần và đặt chế độ làm mát từ 25 độ C trở lên. Các thiết bị điện như máy vi tính phải tắt màn hình hoặc cài chế độ tiết kiệm năng lượng điện (nếu có) khi không sử dụng hoặc rời khỏi vị trí; Điều hòa và chiếu sáng phòng riêng/ít người phải tắt khi ra khỏi phòng từ một giờ trở lên. BSR luôn yêu cầu cán bộ nhân viên tận dụng ánh sáng và thông gió tự nhiên, tắt bớt đèn chiếu sáng khi số người làm việc trong phòng giảm. Sử dụng hệ thống đèn chiếu sáng hợp lý, tiết kiệm tối đa điện năng dùng cho điện chiếu sáng chung ở hành lang…
BSR còn thay thế, sửa chữa và sơn chống nóng mái tôn ở các tòa nhà với công nghệ mới để tăng khả năng cách nhiệt, giảm hấp thu nhiệt, từ đó giảm nhiệt độ bên trong các nhà kho, kho lạnh, nhà xưởng nhằm cải thiện môi trường làm việc và tiết kiệm chi phí sử dụng điện cho hệ thống điều hòa.
Công tác mua sắm của BSR cũng triển khai mua sắm phương tiện, thiết bị yêu cầu dán nhãn năng lượng và áp dụng hiệu suất năng lượng tối thiểu với yêu cầu tham chiếu và tuân thủ Quyết định số 04/2017/QĐ-TTg ngày 09/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ “Quy định danh mục phương tiện, thiết bị phải dán nhãn năng lượng, áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và lộ trình thực hiện”.
Các nỗ lực tiết kiệm năng lượng của BSR không chỉ mang lại lợi ích kinh tế to lớn mà còn tạo ra giá trị tích cực cho môi trường và cộng đồng. Thông qua việc tối ưu hóa hệ thống vận hành và đầu tư vào công nghệ hiện đại, BSR đã giảm đáng kể lượng điện năng tiêu thụ, hạn chế phát thải CO2, và cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng và hơn thế nữa là giúp tiết kiệm hàng triệu USD mỗi năm Những giải pháp này không chỉ góp phần vào việc giảm chi phí vận hành mà còn khẳng định cam kết của BSR trong việc xây dựng một ngành công nghiệp lọc hoá dầu xanh và bền vững, tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp, đồng thời mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội và môi trường.