Luật Viễn thông tạo hành lang pháp lý thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thị trường
Chiều ngày 12/4 tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Viễn thông (sửa đổi).
Toàn cảnh Phiên họp chuyên đề pháp luật Tháng 4/2023.
Dự án Luật Viễn thông (sửa đổi) nhằm thể chế hóa đầy đủ, khắc phục vướng mắc về thể chế, lỗ hổng chính sách, bất cập trong các quy định của Luật Viễn thông 2009
Trình bày Tờ trình dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long cho biết, mục đích xây dựng Luật nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước trong hoạt động viễn thông, phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số; huy động các thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng phát triển hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII: "Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng thông tin, hạ tầng số, quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông cho giai đoạn tới theo định hướng hạ tầng số là thiết yếu, bảo đảm an toàn thông tin mạng là then chốt, ưu tiên đầu tư phát triển nhanh, đi trước một bước".
Thứ trưởng Bộ TT&TT trình bày tờ trình dự án Luật Viễn thông (sửa đổi).
Đồng thời, khắc phục những vấn đề vướng mắc về thể chế, lỗ hổng chính sách, bất cập trong các quy định của Luật Viễn thông 2009 và các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động viễn thông gây hạn chế quá trình phát triển; bổ sung quy định đối với các nội dung mới, phù hợp với xu thế phát triển viễn thông, xu thế hội tụ, hình thành hạ tầng số, hạ tầng của nền kinh tế số. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của Luật này với hệ thống pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đơn giản hóa các thủ tục hành chính…
Trong quá trình đề nghị xây dựng, soạn thảo dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long , Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiến hành rà soát, tổng kết, lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động, các cơ quan, tổ chức, hiệp hội; tổ chức nhiều hội thảo để rà soát, đánh giá toàn diện những vấn đề vướng mắc, bất cập trong thực thi, những mâu thuẫn chồng chéo của Luật Viễn thông 2009 với các luật khác nhằm sửa đổi toàn diện và đảm bảo tính khả thi của dự thảo Luật.
Dự thảo luật đưa ra các quy định quản lý dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây theo nguyên tắc: phân loại dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng trên cơ sở tham khảo định nghĩa dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng của WTO, tham khảo cách phân loại dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng của một số nước và quản lý các dịch vụ này theo pháp luật chung về viễn thông; quản lý bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Dự thảo Luật không khống chế tỷ lệ vốn góp với nhà đầu tư nước ngoài để phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam hiện nay và định hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây theo Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia. Để đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cho người sử dụng, Nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật về hạ tầng, chất lượng dịch vụ, an toàn thông tin, an ninh mạng... và các quy định về bảo vệ dữ liệu theo Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng và pháp luật có liên quan…
Dự thảo Luật bổ sung quy định quản lý việc cung cấp dịch vụ viễn thông (trong đó có dịch vụ vệ tinh) xuyên biên giới vào Việt Nam theo nguyên tắc: Nội luật hóa cam kết quốc tế: việc cung cấp dịch vụ viễn thông xuyên biên giới đến người sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam phải thông qua thỏa thuận thương mại với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam; Đảm bảo an toàn, an ninh khi cung cấp dịch vụ viễn thông xuyên biên giới thông qua các yêu cầu kỹ thuật.
Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định quản lý hoạt động bán buôn trong viễn thông theo nguyên tắc kết hợp giữa pháp luật quản lý cạnh tranh chung và pháp luật chuyên ngành viễn thông để thúc đẩy phát triển thị trường bán buôn.
Cùng với đó, dự thảo Luật đưa ra các quy định quản lý dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet trong viễn thông theo nguyên tắc: phân loại dịch vụ dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng và quản lý theo khung pháp luật chung về viễn thông; quản lý bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài…
Cần thiết phải sửa đổi Luật Viễn thông một cách toàn diện
Thay mặt cơ quan thẩm tra dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy khẳng định: Thường trực Ủy ban tán thành với sự cần thiết phải sửa đổi dự án Luật với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Các nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo, bổ sung thêm thông tin vào trong hồ sơ trình để làm nổi bật được sự cần thiết phải sửa đổi Luật Viễn thông một cách toàn diện. Hồ sơ dự án Luật cơ bản đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023)...
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy trình bày báo cáo thẩm tra.
Về cơ bản, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tán thành với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật đối với dịch vụ (1) trung tâm dữ liệu; (2) điện toán đám mây và (3) dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet (OTT- Over The Top) vì phù hợp với xu hướng phát triển của viễn thông trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ và xu hướng hội tụ trong lĩnh vực này ngày càng trở nên rõ ràng. Một số dịch vụ hoạt động trên nền tảng viễn thông tuy mới xuất hiện nhưng cũng cần có pháp luật điều chỉnh ở mức độ nhất định với phương thức phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu quản lý vừa tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này. Ví dụ, qua nghiên cứu kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, khái niệm mạng viễn thông và cơ sở hạ tầng viễn thông có nội hàm rộng. Ngoài thiết bị viễn thông, đường truyền dẫn, công trình viễn thông còn có thêm thành phần lưu trữ, thành phần hạ tầng công nghệ thông tin. Do đó, việc đưa trung tâm dữ liệu trở thành một cấu phần của cơ sở hạ tầng viễn thông là phù hợp với xu thế, cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng viễn thông trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị cân nhắc thêm về việc mở rộng phạm vi điều chỉnh và các quy định có liên quan trong dự thảo Luật đối với những nội dung mở rộng này, tránh sự trùng lặp, chồng chéo. Đồng thời, cần nghiên cứu thiết kế quy định trong dự thảo Luật đối với 03 loại dịch vụ mới nêu trên theo hướng mở, mang tính nguyên tắc để phù hợp với xu thế thay đổi của các dịch vụ mới và thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc khuyến khích đổi mới sáng tạo đối với các dịch vụ mới này.
Về quản lý dịch vụ OTT viễn thông (Điều 23), Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị nghiên cứu chỉnh lý các quy định nêu trên để bảo đảm chặt chẽ, khả thi, phù hợp; rà soát việc quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT cần gắn với quyền lợi của các doanh nghiệp này.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy đề nghị cân nhắc, chỉ nên luật hóa những nội dung đã được đồng thuận, đối với những nội dung chưa có sự thống nhất, chỉ nên quy định một số nội dung mang tính nguyên tắc trong dự thảo Luật và sẽ được cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn để bảo đảm tính linh hoạt trong thực tế.
Về Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam (Điều 34), Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị nên tiếp tục duy trì Quỹ theo như đề nghị tại Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, dự thảo Luật cần cân nhắc để luật hóa các nội dung đã được quy định tại các quyết định của Thủ tướng Chính phủ và triển khai thực hiện ổn định trong thời gian qua liên quan đến nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của Quỹ để bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, cụ thể và tăng tính hiệu quả. Các quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ cần rà soát, hoàn thiện để phù hợp với mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ thực hiện chính sách của Nhà nước về cung cấp dịch vụ viễn thông “công ích” và pháp luật về ngân sách nhà nước.
Về kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông (Chương V), qua nghiên cứu, khảo sát, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy, việc kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông đang gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc từ khâu quy hoạch cho đến tổ chức thực hiện (nhất là vấn đề đơn giá cho thuê hạ tầng kỹ thuật sử dụng chung). Mặc dù có văn bản hướng dẫn về cơ chế, nguyên tắc kiểm soát giá và phương pháp xác định giá thuê công trình hạ tầng kỹ thuật sử dụng chung nhưng nội dung chưa được rõ ràng và gây nhiều tranh cãi khi áp dụng trên thực tế. Hơn nữa, các quy định này hiện nay không còn phù hợp tình trạng hạ tầng thụ động dùng chung, gây vướng mắc giữa các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp nắm giữ cơ sở hạ tầng viễn thông không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác tham gia sử dụng chung. Các doanh nghiệp nắm giữ cơ sở hạ tầng viễn thông có thể liên tục tăng giá do quy định pháp luật chỉ yêu cầu thực hiện thông báo đăng ký giá thuê với Sở Tài chính mà không phải thông qua thẩm định, xác nhận của các cơ quan chuyên ngành về viễn thông.
Do đó, một số ý kiến đề nghị xem xét bổ sung tại Điều 68 (Quản lý công trình viễn thông) quy định quy trình phê duyệt khi doanh nghiệp sở hữu hạ tầng dùng chung thay đổi đơn giá cho thuê (tăng so với đơn giá hiện tại) cần phải được sự phê duyệt của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, sau hơn 12 năm áp dụng, Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn đã tạo hành lang pháp lý thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thị trường. Mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật viễn thông hiện đại, chất lượng dịch vụ viễn thông được hoàn thiện và nâng cao
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải gợi ý một số nội dung tập trung thảo luận.
Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được, bối cảnh và tình hình mới đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện Luật Viễn thông, thể chế hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý và thúc đẩy hạ tầng viễn thông theo hướng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững, hiện đại, tiết kiệm năng lượng.
Thực tiễn cho thấy Luật hiện hành bộc lộ một số bất cập, hạn chế không còn phù hợp cần được điều chỉnh để giải quyết các vấn đề vướng mắc trong công tác thực thi. Do vậy, Chính phủ đã tổng kết thực tiễn, đề nghị cần thiết phải sửa đổi Luật để đáp ứng xu thế phát triển mới.
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu cho ý kiến về phạm vi điều chỉnh; việc cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, dịch vụ điện toán đám mây và cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam; Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam; kết nối và chia sẻ cơ sở hạ tầng viễn thông… và nhiều vấn đề khác các đại biểu quan tâm.
Thành Nam (T/h)