Thuế bất động sản và chứng khoán: Cần có những nghiên cứu thêm
TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế nhận định, các khoản thuế vào đầu tư chứng khoán cần phải xem xét lại theo hướng khuyến khích để thị trường chứng khoán phát triển bền vững, trở thành nơi huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp và giảm dần áp lực về phụ thuộc vào vốn ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Có ý kiến cho rằng, Việt Nam đang bị thất thu thuế quá lớn, trong khi một số lĩnh vực lại bị lạm thu. Quan điểm của ông ra sao?
Tỷ lệ thu thuế và phí của Việt Nam trên GDP hiện rất cao, bằng khoảng 20 - 22%, trong khi ở nhiều nước chỉ khoảng 15 - 17% và điều đó trở thành gánh nặng đối với các doanh nghiệp tư nhân nội địa. Khu vực này đang chịu áp lực về thuế lớn hơn nhiều so với khu vực FDI và khu vực “công thương” (thuế kinh doanh hộ gia đình). Nói cách khác, thu thuế hiện nay đang có hai thực tế:
Hệ thống ngân hàng đang đóng vai trò là nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
Một là, thất thu quá lớn. Đặc biệt, khu vực FDI vừa được ân hạn thuế 6 năm vừa bị chuyển giá, trốn thuế phổ biến với nhiều tập đoàn FDI hết thời hạn ân hạn tại tỉnh này lại chuyển sang tỉnh khác, bởi vì công nghệ hiện đại đầu tư vào tài sản cố định là không đáng kể, di chuyển nhà máy đơn giản. Các doanh nghiệp FDI được hưởng lợi về thuế và các ưu đãi khác về đất và cơ sở hạ tầng…, tạo ra sự cạnh tranh không công bằng với các doanh nghiệp nội địa.
Một khu vực khác cũng thất thu thuế lớn, đó là kinh tế hộ gia đình. Thương nhân hiện không bị thu thuế, hoặc dưới dạng thuế khoán (thuế đàm phán, mức thuế là do sự thoả thuận giữa nhân viên thu thuế và các hộ gia đình buôn bán nhỏ) và phần lớn mức thuế thấp hơn nhiều so với doanh thu và lợi nhuận.
Hai là, lạm thu. Tỷ lệ thu thuế cao trên GDP đều nhằm vào khu vực doanh nghiệp tư nhân nội địa. Vì vậy, tình trạng tồn tại hai hệ thống sổ sách kế toán trong doanh nghiệp để giảm bớt gánh nặng về thuế khá phổ biến. Đây là điều mà cơ quan chức năng nên xem xét, thay vì mở rộng diện thu thuế sang các lĩnh vực khác.
Ghi nhận ý kiến từ giới chuyên gia, nhiều ý kiến cho rằng chính sách thuế với lĩnh vực đầu tư bất động sản, chứng khoán đang có những bất cập. Còn góc nhìn của ông ra sao?
Chính sách thuế với hoạt động đầu tư bất động sản cần được nghiên cứu theo hướng khuyến khích doanh nghiệp và tư nhân đầu tư vào khu vực này. Ví dụ, bất động sản là khu vực có tỷ trọng vốn đầu tư rất lớn trên tổng đầu tư của tư nhân nội địa. Mặc dù vậy, giá bất động sản của Việt Nam hiện ở mức rất cao so với thu nhập hàng năm của dân cư, có thể gấp từ 60 - 100 lần, tức người dân phải mất 60 - 100 năm thu nhập trung bình mới có thể mua được nhà ở và tình trạng này kéo dài rất nhiều năm.
TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế.
Lý do cơ bản là nguồn cung nhà ở hạn chế, trong đó có việc quy hoạch dài hạn không đáp ứng được nhu cầu và thuế quyền sử dụng đất quá cao.
Một dẫn chứng khác đó là, giá mua đất nông nghiệp là 10 triệu đồng/m2, sau khi doanh nghiệp đầu tư xong cơ sở hạ tầng, giá đất thị trường có thể tăng lên 20 - 30 triệu đồng/m2 và thuế quyền sử dụng đất đánh thuế bằng 100% giá thị trường của đất sau khi có cơ sở hạ tầng, khiến cho giá đất tăng lên gấp đôi, khoảng 40 - 60 triệu đồng/m2. Như vậy, làm sao có nhà ở giá rẻ và nhiều doanh nghiệp, sau khi đền bù giải phóng mặt bằng, làm cơ sở hạ tầng đã không còn tiền nộp thuế để được cấp phép xây dựng. Hàng ngàn dự án đang phải đắp chiếu, trong đó có nguyên nhân là chủ đầu tư không có tiền để nộp thuế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, hàng loạt vấn đề trong Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu khiến cho doanh nghiệp đầu tư vào bất động sản mất rất nhiều thời gian và các chi phí khác, khiến cho giá đất liên tục tăng và nguy cơ không có nhà ở đối với người lao động bình thường, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày càng lớn.
Bên cạnh đó, các khoản thuế vào đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cũng cần phải xem xét lại theo hướng khuyến khích để thị trường chứng khoán phát triển bền vững, trở thành nơi huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp và giảm dần áp lực về phụ thuộc vào vốn ngân hàng, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Chúng ta phải nhìn thẳng vào vấn đề, đâu đó vẫn còn những khía cạnh thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hoàn hảo để thu hút tất cả “khẩu vị” của các nhà đầu tư, trong khi các quy định nội tại lại chưa thực sự khuyến khích nhà đầu tư trong nước.
Vậy nhưng, kỳ vọng về sự phát triển của thị trường chứng khoán lại rất lớn khi Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030 đã đặt ra mục tiêu quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 100% GDP vào năm 2025 và đạt 120% GDP vào năm 2030; dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP (trong đó, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 20% GDP) vào năm 2025 và đạt tối thiểu 58% GDP (trong đó, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt tối thiểu 25% GDP) vào năm 2030; thị trường chứng khoán phái sinh tăng trưởng trung bình 20 - 30% mỗi năm trong giai đoạn 2021 - 2030. Hay số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán đạt 9 triệu tài khoản vào năm 2025 và 11 triệu tài khoản vào năm 2030; trong đó, tập trung phát triển nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
Chính phủ cũng đặt mục tiêu tăng tỷ trọng trái phiếu chính phủ do nhà đầu tư là tổ chức phi ngân hàng nắm giữ lên mức 55% vào năm 2025 và 60% vào năm 2030. Đặc biệt là ngay trong năm 2025, nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi theo tiêu chuẩn phân hạng thị trường chứng khoán của các tổ chức quốc tế…
Nhu cầu chi tiêu của Chính phủ trong năm 2025 là rất lớn, đặc biệt trong đầu tư công. Theo ông, làm thế nào để tăng ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho nhu cầu này?
Chính sách thuế phụ thuộc nhiều vào nhu cầu chi tiêu của ngân sách, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu quả của khu vực công. Tiết kiệm chi tiêu ngân sách là một trong những biện pháp hữu hiệu để giảm bớt gánh nặng về thuế, đặc biệt là tình trạng lãng phí xảy ra khá phổ biến như chi phí hội họp, tổ chức lễ kỷ niệm, chi phí xe công vụ, trang trí khánh tiết; chi phí đi khảo sát, học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”…
Tình trạng lãng phí ngân sách lớn, nhất là lãng phí về hiệu quả công vụ khiến cho rất nhiều dự án đầu tư từ bất động sản cho đến đầu tư công và các khu công nghiệp đều kéo dài ít nhất 5 năm làm thất thoát tài nguyên nói chung và tài sản xã hội hàng chục tỷ USD. Trong khi lẽ ra ngân sách cần phải tập trung đầu tư vào giáo dục theo hướng đào tạo đội ngũ kỹ sư và chuyên gia để nhanh chóng tiếp cận với công nghệ mới, khoa học hiện đại. Hoặc ngân sách đầu tư vào nghiên cứu và phát triển tạo ra những cơ sở nghiên cứu thực hành khoa học và công nghệ hàng đầu giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, tăng năng suất lao động, tăng năng lực cạnh tranh quốc tế và năng lực quốc phòng. Đây là vấn đề rất cấp bách.
Tôi cũng muốn chia sẻ thêm một vấn đề. Trong vòng 3 năm qua, Chính phủ nhiều quốc gia đã đầu tư hàng trăm tỷ USD vào phát triển công nghiệp chip, bán dẫn, thế hệ mới, công nghệ AI và công nghệ xanh. Ví dụ, Mỹ có 2 gói đầu tư trị giá lên tới gần 1.000 tỷ USD; Nhật Bản cũng có những gói kích thích nền kinh tế, mỗi gói là 30.000 tỷ Yên (khoảng 200 tỷ USD), trong đó, 1/3 dành cho chip điện tử, bán dẫn và AI; hay Trung Quốc có gói kích thích kinh tế trị giá 55 - 60 tỷ USD…
Cần sớm có kế hoạch ngân sách thực hiện hiệu quả nghị quyết này nhằm tạo ra một thế hệ công nghệ mới, một thời đại kinh tế mới, kỷ nguyên phát triển mới.