Bảo đảm an ninh quốc gia từ việc làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm công nghệ cao trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

16:23, 29/01/2025

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, nhưng đồng thời đặt ra không ít thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân và ngày càng tác động sâu rộng vào mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội... Để nắm bắt thời cơ cũng như hạn chế tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh việc làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi, phát triển các ứng dụng công nghệ cao hướng tới hình thành doanh nghiệp Việt Nam mang tầm quốc gia, khu vực và thế giới. Đây không chỉ là chủ trương, định hướng chiến lược để Việt Nam bứt phá, mà còn góp phần quan trọng trong bảo đảm an ninh quốc gia.

Làm chủ công nghệ lõi, phát triển các sản phẩm công nghệ cao đối với nền an ninh của các quốc gia

Công nghệ lõi (core technology) là những công nghệ cơ bản và quan trọng nhất được sử dụng để tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Đây là những công nghệ nền tảng và cốt lõi mà sản phẩm hoặc dịch vụ đó dựa vào để mang lại giá trị và các tính năng chủ đạo. Công nghệ lõi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tính cạnh tranh của một sản phẩm hoặc một dịch vụ. Nó tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng cách cung cấp khả năng độc đáo và giá trị cho người dùng, cho phép sản phẩm hoặc dịch vụ nổi bật và khác biệt so với sản phẩm cạnh tranh khác trên thị trường. Ví dụ, trong lĩnh vực điện thoại di động, công nghệ lõi có thể là chip xử lý, màn hình cảm ứng, kết nối mạng, hệ điều hành và công nghệ phần mềm đi kèm. Các công nghệ này là những yếu tố quan trọng và không thể thiếu để sản phẩm điện thoại di động hoạt động và mang lại trải nghiệm cho người dùng ngày càng tốt hơn.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ lõi chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực chính như: Trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (machine learning); internet vạn vật (IoT); chuỗi khối (blockchain); thực tế ảo (VR) và tăng cường thực tế (AR); điện toán đám mây (cloud computing); dữ liệu lớn (big data). Các công nghệ lõi này kết hợp với nhau để tạo nên một hệ sinh thái kỹ thuật số thông minh, tự động và có tính liên kết cao trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; cung cấp cơ sở cốt lõi để phát triển các ứng dụng và giải pháp mới, tạo ra sự tương tác và nâng cao năng suất, hiệu quả và sự cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ.

Nhiều nước trên thế giới có chiến lược và kế hoạch làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi, phát triển ứng dụng công nghệ cao và để lại nhiều bài học quý. Trung Quốc có kế hoạch “Made in China 2025”, coi công nghệ thông tin, công nghệ cao là nền tảng quan trọng, không chỉ giúp nước này tự chủ về công nghiệp công nghệ cao, mà còn có thể từng bước đưa Trung Quốc trở thành siêu cường công nghệ hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ XXI. Sau 5 năm thực hiện kế hoạch (2015 - 2020), Trung Quốc đã có những doanh nghiệp viễn thông tư nhân và nhà nước khổng lồ, đem lại lợi thế lớn trong phát triển kinh tế, đồng thời giúp chủ động trong bảo đảm an ninh quốc gia. Để tiếp tục hiện thực kế hoạch “Made in China 2025”, kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021 - 2025), Trung Quốc thực hiện mua lại công nghệ lõi trong nước cho các mục tiêu kinh tế, xã hội và an ninh quốc gia trong dài hạn.

Trong lĩnh vực công nghệ, Mỹ đã ban hành các văn bản tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn mang tính chiến lược, như Sáng kiến lượng tử quốc gia (QIS, năm 2018), Sáng kiến trí tuệ nhân tạo (AI, năm 2019); chính thức đưa AI và khoa học thông tin lượng tử vào danh sách ưu tiên R&D của Mỹ (1). Tháng 8/2022, Mỹ đã ban hành Đạo luật CHIPS và Khoa học với tham vọng đưa nước này quay lại thời hoàng kim, trở thành nước dẫn đầu không chỉ về phát minh, sáng chế, mà còn là nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu trong thập niên tới. Chính sách của Mỹ thời gian qua tập trung phát triển hơn nữa thành quả công nghệ đã tích lũy được trong các giai đoạn trước, đồng thời thiết lập các “liên kết kinh tế” ở cả cấp độ đa phương và cấp độ song phương để triển khai các chính sách, chiến lược đã được công bố, từ đó “siết chặt gọng kìm công nghệ” đối với Trung Quốc. Cụ thể, ở cấp độ đa phương, Mỹ thành lập Hội đồng Thương mại và Công nghệ Mỹ - Liên minh châu Âu (tháng 9/2021); Cơ chế đối thoại về chuỗi cung ứng chip bán dẫn (CHIP4), bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) (tháng 3/2023)... Ở cấp độ song phương, Mỹ ký kết bản ghi nhớ về chuỗi cung bán dẫn với Ma-lai-xi-a (tháng 5/2022), Cơ chế đối tác chuỗi cung với Xin-ga-po (tháng 8/2021) (2).

Với các nước Liên minh châu Âu (EU), Ủy ban châu Âu (EC) thông qua Đạo luật CHIPS của EU nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào Mỹ và khu vực châu Á trong lĩnh vực bán dẫn, sau khi chuỗi cung ứng toàn cầu bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là trong giai đoạn đại dịch COVID-19. Đây được xem là bước đi đối trọng với Đạo luật CHIPS và Khoa học của Mỹ. Không chỉ mong muốn tự chủ công nghệ, mà EU còn đẩy mạnh việc bảo vệ “chủ quyền công nghệ” bằng cách ban hành các đạo luật mới, như Đạo luật Thị trường kỹ thuật số và Đạo luật Dịch vụ kỹ thuật số vào tháng 12-2021, nhằm buộc các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ, như Google, Apple, Meta, Amazon, Microsoft, phải điều chỉnh hoạt động kinh doanh phù hợp với các tiêu chuẩn đề ra tại châu Âu (3).

Bên cạnh đó, tầm ảnh hưởng của doanh nghiệp công nghệ tư nhân cũng được thể hiện rõ nét trong cuộc xung đột Nga - U-crai-na, như hệ thống internet vệ tinh Starlink của tỷ phú Elon Musk giúp U-crai-na duy trì mạng lưới thông tin liên lạc; việc sử dụng Cloudflare để bảo vệ dữ liệu trực tuyến nhạy cảm; công nghệ nhắm mục tiêu của Palantir; vai trò của Amazon với việc đưa dữ liệu của chính phủ lên đám mây; các doanh nghiệp công nghệ lớn, như Tiktok, Facebook… trong thu thập thông tin người dùng và định hướng dư luận, tạo ảnh hưởng trên mặt trận chính trị, ngoại giao, kinh tế, truyền bá văn hoá…

Khi có những doanh nghiệp lớn làm chủ bí quyết về công nghệ nền, công nghệ lõi, thì quốc gia đó có thể sử dụng sản phẩm công nghệ cao làm đối trọng trong việc cân bằng lợi ích và cạnh tranh với quốc gia khác. Cạnh tranh công nghệ giữa các nước, nhất là các nước lớn, đang ngày càng gay gắt và quyết liệt bởi việc kiểm soát công nghệ của tương lai mang ý‎ nghĩa quyết định đối với sức mạnh kinh tế và an ninh của các quốc gia.

Chiến lược làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm công nghệ cao ở Việt Nam

Để nắm bắt thời cơ cũng như hạn chế tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, trong đó xác định nội dung cốt lõi của chính sách chủ động tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta là thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả các ngành, lĩnh vực và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trọng tâm là phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số; đồng thời, phải bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn, công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước.

Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc” (4).

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg ban hành “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030” định hướng rõ nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tập trung phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bao trùm, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Theo đó, phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, các ngành có năng suất và giá trị gia tăng cao nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại với đẩy mạnh chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực; thúc đẩy phát triển các ngành chế biến, chế tạo, một số ngành lĩnh vực mũi nhọn dựa trên nền tảng công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp thu, làm chủ, chuyển giao, ứng dụng rộng rãi công nghệ tiên tiến của thế giới nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ trong phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường tự chủ về công nghệ và tiến tới phát triển công nghệ mới của Việt Nam trong một số lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, tiềm năng và còn dư địa lớn. Làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nguồn, công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nhanh chóng hấp thụ, ứng dụng vào phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, sản phẩm chủ lực và thương hiệu quốc gia, thực hiện chuyển đổi số doanh nghiệp.

Chính phủ đang đẩy mạnh việc phát triển sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam”, đặc biệt là sản phẩm và nền tảng công nghệ số nhằm thực hiện “mục tiêu kép” vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Các sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” ngày càng được đầu tư, phát triển cả về chủng loại, số lượng và chất lượng. Các tập đoàn công nghệ lớn, như Vingroup, FPT, Viettel đã đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam”. Nhiều sản phẩm công nghệ cao được phát triển trong nước, như điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính, camera an ninh, thiết bị IoT, phần mềm... Bên cạnh lĩnh vực di động, nhiều sản phẩm được hình thành từ doanh nghiệp công nghệ “Make in Vietnam” ở các lĩnh vực khác, như phần mềm quản lý, chăm sóc sức khỏe trong lĩnh vực y tế; nền tảng học trực tuyến, hỗ trợ giáo dục trong lĩnh vực giáo dục; quản lý, giám sát tiêu thụ điện năng trong lĩnh vực năng lượng; phần mềm quản lý đơn hàng, các giải pháp quản lý, vận hành kho hàng tự động, hệ thống quản lý vận chuyển trong lĩnh vực logistic... Các sản phẩm này bước đầu thể hiện khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Một trong những yếu tố tạo nên thành công trên là có sự đồng hành của Chính phủ, vừa là “bà đỡ”, vừa là “khách hàng lớn” tiêu dùng sản phẩm công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh kết quả đạt được, sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế chính của sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” là khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác trên thị trường trong nước và quốc tế. Một ví dụ cụ thể là các sản phẩm điện thoại di động; mặc dù Vsmart, Bphone đã được đầu tư mạnh mẽ về thiết kế và tính năng, tuy nhiên thị phần trên thị trường vẫn không thể sánh được với các đối thủ lớn đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc như Samsung, Oppo, Xiaomi... Vingroup đã chính thức thông báo dừng sản xuất điện thoại thông minh Vsmart từ tháng 7/2021 do không đạt được mục tiêu doanh số và thị phần như mong đợi. Đối với sản xuất chíp bán dẫn, trong Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg, ngày 19/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc "Phê duyệt Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển”, đã đưa công nghệ thiết kế, chế tạo các bộ vi xử lý, mạch tích hợp vào danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển. Tuy nhiên, đến nay, Việt Nam đang phụ thuộc vào nguồn cung chíp bán dẫn từ nước ngoài. Các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam đa phần chỉ thực hiện công đoạn gia công, lắp rắp, thử nghiệm và đóng gói, chưa phải là quy trình thiết kế, sáng tạo, cải tiến công nghệ tại Việt Nam. Nếu chỉ tham gia vào giai đoạn gia công, lắp ráp, không được tham gia sâu vào quy trình thiết kế, sáng tạo công nghệ của sản phẩm thì chúng ta không thể tiến tới làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi. Mặt khác, sự thiếu hụt về nguồn nhân lực chất lượng cao, về hạ tầng công nghệ, sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường thế giới, sự độc quyền về tri thức khoa học, bí quyết công nghệ của các quốc gia và doanh nghiệp công nghệ lớn trên thế giới, các nút thắt về cơ chế, chính sách... cũng là những rào cản lớn trong chiến lược phát triển và tiến tới làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam. Đặc biệt, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam dường như mới chỉ dừng lại ở việc chuyển giao công nghệ, mang lợi ích kinh tế trong ngắn hạn, chưa thực sự đặt mục tiêu dài hạn về việc làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi để có sản phẩm chất lượng cao, bí quyết công nghệ của riêng mình có thể cạnh tranh ở tầm khu vực và thế giới.

Một số giải pháp làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm công nghệ cao “Make in Vietnam”, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia

Làm chủ công nghệ lõi, phát triển sản phẩm công nghệ cao “Make in Vietnam” không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế, xã hội, khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ công nghệ thế giới, mà còn góp phần quan trọng bảo đảm an ninh quốc gia. Để làm được điều đó, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp dưới đây:

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dân về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa tinh thần sáng tạo, lòng tự hào quốc gia trong làm chủ công nghệ lõi, phát triển và ứng dụng sản phẩm công nghệ cao. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù như công nghiệp công nghệ số, công nghiệp quốc phòng, an ninh,...; tạo lập khung pháp luật cho nghiên cứu phát triển, sản xuất thông minh, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về sản phẩm công nghệ cao. Cần có những đột phá về cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế về thuế, tài chính, tín dụng, đất đai... cho phát triển, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ nền, công nghệ lõi và thu hút nguồn lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp của người Việt Nam. Đồng thời, phải thường xuyên đánh giá, rà soát, cập nhật, bổ sung về chủ trương, chính sách để chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước thực sự đi vào thực tiễn, phản ứng kịp thời và có hiệu quả cao trong thực tiễn.

Hai là, Nhà nước cần xây dựng chiến lược quốc gia, quy hoạch tổng thể về phát triển công nghiệp số, công nghệ nền, công nghệ lõi với tầm nhìn dài hạn, tư duy đổi mới, đột phá, sự đầu tư và các bước đi bài bản, khả thi, phương pháp phù hợp, cùng sự đầu tư lớn tương xứng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số lĩnh vực mũi nhọn, có tính thực tiễn cao phù hợp thế mạnh về con người, công nghệ, văn hóa và lợi thế cạnh tranh quốc gia. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể cho mỗi giai đoạn với các kết quả được xác định một cách rõ ràng, gắn với trách nhiệm với từng bộ ngành, địa phương. Đây là vấn đề thuộc lĩnh vực công nghệ cao, tiêu tốn nhiều nguồn lực, do đó các kế hoạch cần được xây dựng chặt chẽ, khả thi, tạo thể thống nhất giữa các cơ quan trung ương và giữa các cơ quan trung ương với các địa phương để tập trung nguồn lực, tránh thất thoát, lãng phí tài nguyên Quốc gia.

Ba là, chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó tập trung vào “nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt”, đặc biệt cần tiếp tục gắn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với “ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Để làm được điều đó, cần có chính sách thực sự hấp dẫn để thu hút những chuyên gia hàng đầu về công nghệ nền, công nghệ lõi từ nước ngoài về Việt Nam làm việc, nghiên cứu, phát triển, cũng như tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới trong lĩnh vực bán dẫn nói riêng và công nghệ cao nói chung. Thúc đẩy giao lưu và dịch chuyển cộng đồng khoa học công nghệ xuyên quốc gia tạo nên những liên minh khoa học công nghệ. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước trở thành đối tượng không thể thiếu trong quá trình chuyển giao, giải mã công nghệ và tham gia vào quá trình tìm kiếm, đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực có trình độ cao trong nước và quốc tế, liên kết với các trường đại học trong đặt hàng nguồn nhân lực và thực hiện các dự án thử nghiệm công nghệ. Thiết tạo môi trường và thúc đẩy sự hình thành cộng đồng các nhà khoa học công nghệ là kiều bào ta ở nước ngoài và các nhà khoa học trong nước. Bên cạnh đó, cần có chiến lược để người Việt Nam được tham gia trực tiếp vào quy trình sáng tạo, làm chủ công nghệ và tạo sự “lưu thông kép” trong quá trình hình thành sản phẩm, theo nghĩa bản thân doanh nghiệp nước ngoài cũng chịu sự chi phối trong chuỗi cung ứng công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam.

Bốn là, Nhà nước cần tăng cường thu hút nguồn lực, phát huy vai trò của các doanh nghiệp lớn trong đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng cho lĩnh vực phát triển công nghệ nền, công nghệ lõi. Tuy nhiên, đối hạ tầng công nghiệp công nghệ nền, công nghệ lõi là một lĩnh vực không mang lại giá trị lợi nhuận trong ngắn hạn, trong đó có hạ tầng kỹ thuật không thể xã hội hóa được như một số cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghiệp quốc phòng, an ninh thì nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư. Cụ thể, nhà nước cần đồng hành và khuyến khích các doanh nghiệp lớn tham gia vào quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ tiên tiến, bao gồm: phát triển mạng lưới viễn thông và internet tốc độ cao, siêu cao nhằm đảm bảo sự kết nối ổn định, hiệu quả và liên kết, chia sẻ, phân phối thông tin rộng rãi, điều này tạo ra một nền tảng giúp các doanh nghiệp công nghệ phát triển và triển khai các ứng dụng và dịch vụ trực tuyến; xây dựng các trung tâm dữ liệu và hạ tầng điện toán đám mây để lưu trữ và xử lý dữ liệu một cách hiệu quả; đầu tư cơ sở hạ tầng cho công nghệ IoT, cho phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo; xây dựng các trung tâm công nghệ, cụm công nghiệp mang tầm khu vực và thế giới, tạo không gian và môi trường làm việc, nghiên cứu, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo nhằm thu hút các doanh nghiệp công nghệ cao.

Năm là, Nhà nước giữ vai trò là bệ đỡ, tạo cơ chế, chính sách và bỏ “vốn mồi” để huy động rộng rãi các nguồn lực đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ lõi, công nghệ nền, từ đó trực tiếp giúp doanh nghiệp trong nước tăng cường khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến và phát triển sản phẩm công nghệ đạt chuẩn quốc tế. Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển các hoạt động sáng chế, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm doanh nghiệp có đầy đủ quyền sở hữu và kiểm soát công nghệ lõi của mình, bao gồm cả việc cấp bằng sáng chế, đăng ký thương hiệu và các biện pháp pháp lý khác để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà nước tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp và là “khách hàng lớn” đối với sản phẩm công nghệ, đặc biệt là sản phẩm công nghệ cao của doanh nghiệp trong nước; khuyến khích phong trào doanh nghiệp Việt Nam, người Việt Nam dùng hàng Việt Nam; tăng cường khâu tổ chức thực hiện và có cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ lõi trong nước. Khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia vào quá trình nghiên cứu, phát triển, cung cấp sản phẩm và dịch vụ công nghệ “lưỡng dụng” vừa phát triển kinh tế - xã hội, vừa phục vụ mục đích bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo mật và an toàn thông tin. Chính sách này sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận với các dự án quan trọng của quốc gia, từ đó nâng cao khả năng nghiên cứu, phát triển và sản xuất của mình, tạo ra những sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số tạo nền tảng vững chắc trong việc phát triển bền vững; tạo sự minh bạch trong quản lý nguồn lực và ngân sách, xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm quy định thủ tục hành chính, tạo cơ hội công bằng cho tất cả các doanh nghiệp, thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển trong nhiều lĩnh vực; tạo cơ hội cho các ngành công nghiệp, công nghệ mới ra đời đồng thời cải thiện hiệu suất làm việc của các ngành truyền thống; các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, tiếp cận khách hàng quốc tế thông qua các nền tảng trực tuyến; hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để tiếp cận với công nghệ tiên tiến.

Sáu là, chú trọng và đa dạng hóa hình thức và đối tượng tham gia hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, đưa hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ thành một bộ phận trong đối ngoại quốc gia, từ việc hợp tác trong nghiên cứu và phát triển công nghệ, đến hợp tác trong việc tham gia đồng tác giả các công trình sáng chế, các công trình công bố trên các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới; mở rộng việc tổ chức cũng như tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế lớn về các lĩnh vực khoa học công nghệ mới; huy động nguồn lực từ các tổ chức phi chính phủ và các quỹ phi lợi nhuận trong hoạt động tài trợ hoặc xúc tiến hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ. Chủ động và tăng cường hoạt động chuyển giao tri thức khoa học và bí quyết công nghệ đối với các lĩnh vực khoa học công nghệ mà chúng ta chưa thực sự hoàn toàn tự chủ.

Tài liệu tham khảo

(1) Xem: Phạm Minh Thu: “Công nghệ và sức mạnh tổng hợp quốc gia: Từ lý thuyết đến chính sách của Mỹ”, Tạp chí Cộng sản, số 1.015 (6-2023), tr. 106, 107

(2) (3) Xem: Phạm Minh Thu: “Công nghệ và sức mạnh tổng hợp quốc gia: Từ lý thuyết đến chính sách của Mỹ”, Tlđd, tr. 106, 107

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 106

Trung tướng Vũ Ngọc Thiềm và các cộng sự (nguồn: Tạp chí Cộng sản)