Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ trong tham vọng bứt phá cuộc đua AI toàn cầu
Việt Nam đang đặt tham vọng bứt phá trong cuộc đua trí tuệ nhân tạo (AI) toàn cầu. Tuy nhiên, trong khi tiềm năng phát triển công nghệ là rất lớn, nền tảng pháp lý bảo vệ quyền tác giả và các quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) khác vẫn còn khá mong manh. Chính trong bối cảnh đó, các quy định mới liên quan đến việc sử dụng dữ liệu cho huấn luyện AI, theo đề xuất của Dự thảo Luật SHTT (sửa đổi) và dự thảo Luật AI đã thu hút được nhiều sự quan tâm.
Đáng chú ý, cả hai Dự thảo Luật đều đã hoặc đang đưa ra những cơ chế ngoại lệ hoặc miễn trừ trách nhiệm cho hành vi sao chép và sử dụng dữ liệu cho mục đích huấn luyện AI. Từ góc độ phát triển công nghệ, đây được coi là cách gỡ bỏ rào cản. Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ quyền SHTT, những quy phạm này có thể tạo ra xung đột nội tại, dẫn đến khoảng trống pháp lý và nguy cơ bị lạm dụng.

Ngoại lệ quá rộng khi cơ chế bảo hộ còn yếu
Theo quy định mới nhất tại khoản 5 Điều 7 Dự thảo Luật SHTT (sửa đổi) trình Quốc hội thông qua: “Tổ chức, cá nhân được phép sử dụng văn bản và dữ liệu đã được công bố hợp pháp và công chúng được phép tiếp cận, nhằm mục đích nghiên cứu, huấn luyện và phát triển hệ thống AI, với điều kiện: (i) không sao chép, phân phối, truyền đạt, công bố, làm tác phẩm phái sinh hoặc khai thác thương mại văn bản, dữ liệu gốc và (ii) không gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu theo quy định của Luật này và pháp luật khác có liên quan”.
Như vậy, Dự thảo đang đặt ra một ngoại lệ cho việc sử dụng đối tượng quyền SHTT. Tuy nhiên ngoại lệ này lại không nằm trong quy định hiện hành về các trường hợp sử dụng hợp lý, được quy định tại Điều 25 và 26. Khi được đề xuất thêm vào Điều 7 quy định về giới hạn quyền SHTT, ngoại lệ huấn luyện AI đang trở thành “ngoại lệ nguyên tắc”, cung cấp một cơ chế “siêu miễn trừ”. Quy định này dường như không phù hợp với với Công ước Berne, dễ đẩy Việt Nam vào tình huống bị khiếu nại vì không tuân thủ điều ước quốc tế.
Theo quy định hiện nay, miễn là chủ thể đáp ứng được điều kiện, họ có thể sử dụng mọi dạng dữ liệu, để nghiên cứu, huấn luyện và phát triển hệ thống AI. Trong khi đó ý chí của tác giả và chủ sở hữu quyền bị loại trừ hoàn toàn. Khi hầu hết các mô hình AI không cần tái tạo hoàn toàn dữ liệu gốc để cạnh tranh, tác giả có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị thay thế nhưng không có căn cứ để đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Đối với điều kiện phát sinh trường hợp ngoại lệ, mâu thuẫn phát sinh khi điều luật cho phép sử dụng nhưng cấm “sao chép, phân phối, công bố, làm tác phẩm phái sinh hoặc khai thác thương mại văn bản, dữ liệu gốc”. Trên thực tế, việc huấn luyện mô hình chính là sao chép dữ liệu (token hóa, tạo cookies, cache, nhúng, lập chỉ mục). Khi pháp luật không có hướng dẫn rõ ràng, tranh luận khi soi chiếu các hoạt động này trong phạm vi “sao chép” theo quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật SHTT hiện hành sẽ xảy ra. Cho đến khi “sao chép” được tái định nghĩa , quy định mới sẽ mở cánh cửa để các nhà phát triển AI khai thác miễn phí quyền SHTT của người Việt.
Đối với yêu cầu không gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền SHTT, quy định lại đặt ra câu hỏi về thẩm quyền, tiêu chí đánh giá, thủ tục giám định, nghĩa vụ chứng minh... Ví dụ, khi AI không tiết lộ nguồn dữ liệu đã học, tác giả không thể chứng minh thiệt hại. Rất có thể điều luật sẽ được hướng dẫn thêm. Tuy nhiên cho đến khi có văn bản cụ thể, đây vẫn là một quy định quá mơ hồ và rủi ro cho các bên liên quan.
Do cơ chế bảo hộ - thực thi quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập, việc mở ngoại lệ như Dự thảo đang làm có nguy cơ tạo khoảng trống pháp lý lớn. Trong bối cảnh chưa có tòa chuyên trách về SHTT và các tranh chấp vẫn thường được giải quyết thông qua cơ chế hành chính hơn là tố tụng, ngoại lệ huấn luyện AI trong Dự thảo Luật SHTT đang tạo ra nhiều rủi ro nhiều hơn lợi ích. Bởi lẽ, hướng quy định hiện hành dường như chỉ tạo “lối thoát” cho các nhà phát triển AI muốn khai thác dữ liệu mà không chịu ràng buộc trách nhiệm chứ không tạo ra thêm giá trị nào khác.
Dự thảo Luật AI - Đã tháo gỡ nguy cơ xung đột nhưng vẫn còn khoảng trống pháp lý
Trước đây, theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 19 dự thảo Luật AI lần thứ nhất ngày 29/9/2025: “Việc sao chép, trích xuất các tác phẩm, cơ sở dữ liệu đã được tiếp cận một cách hợp pháp nhằm mục đích duy nhất là huấn luyện AI không được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả và quyền liên quan, trừ khi Luật SHTT có quy định khác”.
Theo đó, điều luật này cũng cung cấp hai điều kiện để được miễn trừ trách nhiệm, bao gồm: (i) Áp dụng các biện pháp kỹ thuật phù hợp để bảo đảm an ninh và ngăn chặn việc tái sử dụng dữ liệu cho mục đích khác và (ii) Tôn trọng quyền của chủ sở hữu trong việc từ chối không cho phép sử dụng tác phẩm của mình cho mục đích huấn luyện AI thông qua các tín hiệu máy có thể đọc được.
Như vậy, ở Dự thảo cũ, việc cung cấp một cơ chế an toàn (safe harbor) cho các nhà cung cấp mô hình AI. Ngược lại với quy định của khoản 5 Điều 7 Dự thảo Luật SHTT cấm sao chép, Điều 19 này quy định việc sao chép/trích xuất cho mục huấn luyện AI không cấu thành xâm phạm nếu nhà cung cấp đáp ứng điều kiện. Dù điều luật đã đưa ra quy định “trừ khi Luật SHTT có quy định khác”. Theo Khoản 3 Điều 6 bản dự thảo này: “Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với luật khác về cùng một vấn đề liên quan đến AI, áp dụng quy định của Luật này”
Về mặt kỹ thuật, việc xuất hiện một điều khoản phi-xâm-phạm quyền tác giả và quyền liên quan trong một đạo luật không phải luật SHTT là điều chưa từng có tiền lệ. Điều khoản ưu tiên áp dụng cũng khiến ngoại lệ AI gần như đương nhiên được chấp nhận. Hệ quả là (i) Trật tự hệ thống pháp luật bị xáo trộn, (ii) Cơ chế bảo vệ quyền SHTT bị đẩy ra ngoài rìa, và (iii) Luật AI vô hình trung can thiệp vào phạm vi điều chỉnh vốn thuộc Luật SHTT, tạo ra hiệu ứng tương tự như một luật bản quyền thứ hai đối với dữ liệu.
Riêng đối với điều kiện để đạt được ngoại lệ, việc sử dụng các thuật ngữ như “biện pháp kỹ thuật phù hợp”, “tín hiệu máy có thể đọc được” tiếp tục tạo ra các quy phạm mơ hồ và phụ thuộc nhiều vào hướng dẫn/tiêu chuẩn chi tiết về sau. Khi không có các tiêu chuẩn thống nhất, thẩm quyền đánh giá, thẩm định, điều luật tiếp tục xa rời thực tiễn và đặt các chủ thể liên quan vào tình huống tiến thoái lưỡn nan.
Đến Dự thảo số 2 ngày 22/11/2025 trình Quốc hội, các quy định ngoại lệ này đã được lược bỏ. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 36 vẫn giữ quy tắc ưu tiên áp dụng trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn về cùng một vấn đề, dẫn đến nguy cơ các cơ chế bảo hộ của Luật SHTT rơi vào tình huống bị vô hiệu. Đồng thời, các nghĩa vụ kỹ thuật như minh bạch, gắn nhãn, giải trình (Điều 9) và nghĩa vụ của nhà cung cấp và bên triển khai hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao (Điều 13) vẫn không được thiết kế để điều chỉnh hoạt động huấn luyện mô hình. Trong giai đoạn thu thập và sử dụng dữ liệu, gần như không có ràng buộc pháp lý nào để bảo vệ chủ thể quyền SHTT.
Cân bằng giữa khuyến khích phát triển và phòng ngừa rủi ro
Thời gian qua, sự quan tâm đối với khoản 5 Điều 7 dự thảo sửa đổi Luật SHTT đã tạo được làn sóng dư luận không nhỏ. Tuy nhiên, khi kết hợp với các quy định về SHTT tại dự thảo Luật AI, bức tranh có lẽ sẽ còn ảm đạm hơn.
Mặc dù cả hai Dự thảo đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện phát triển AI, tiếp sức cho Việt Nam tiếp tục “vươn mình”, ngoại lệ được luật SHTT đề xuất cho huấn luyện AI đang quá rộng. Điều này vô hình trung đẩy AI phát triển theo hướng hấp thụ dữ liệu nhưng không hoàn trả giá trị. Khi Luật SHTT đã mở cửa nhưng không kèm nghĩa vụ và Luật AI bỏ qua hoạt động huấn luyện AI, thị trường AI Việt Nam sẽ phát triển theo hướng khai thác nội dung thay vì đổi mới sáng tạo
Một mặt, các quy định này đẩy Việt Nam trở thành “mỏ dữ liệu” (data mine) cho các nhà phát triển AI nước ngoài. Trong khi đó dữ liệu nước ngoài lại thường bị khóa bởi hợp đồng, khiến mô hình Việt Nam không thể thu thập. Lâu dần, các nhà phát triển AI nội địa sẽ dần bị đào thải khỏi thị trường. Mặt khác, khi người sáng tạo bị cạnh tranh bởi chính nội dung của họ, động lực sáng tạo sẽ không còn. Người dùng thì sẽ dần quen với nội dung mô phỏng được tạo bởi AI, chất lượng thấp nhưng giá rẻ. Đây là điểm khởi đầu cho các xói mòn sâu hơn trong hệ sinh thái sáng tạo, mất cân bằng dữ liệu, và mất chủ quyền văn hóa - công nghệ trong kỷ nguyên AI tổng quát.
Đối diện với các thách thức đặt ra khi xem xét vấn đề bảo hộ quyền SHTT trong kỷ nguyên AI và tham vọng của quốc gia trong cuộc đua AI toàn cầu, đã đến lúc cần chuyển trọng tâm sang tìm kiếm điểm cân bằng giữa khuyến khích phát triển và phòng ngừa rủi ro, giữa đổi mới và an toàn.
Theo đó, khuyến khích phát triển AI không có nghĩa là phải hy sinh quyền SHTT. Điều quan trọng là người làm luật phải hiểu được cơ chế hoạt động của các mô hình AI và mục tiêu của bảo hộ quyền SHTT. Về mặt nguyên tắc, các quy định của Luật SHTT cần được ưu tiên áp dụng trong trường hợp xảy ra xung đột pháp luật. Điều này rất quan trọng vì Luật SHTT mới là luật chuyên ngành trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT.
Soi chiếu ở thị trường Việt Nam, có lẽ chúng ta chưa đủ điều kiện để đưa ngoại lệ huấn luyện AI vào Luật SHTT. Khoản 5 nên được lược bỏ khỏi quy định tại Điều 7. Trong trường hợp muốn giữ ngoại lệ về huấn luyện AI, có thể cân nhắc chuyển nội dung này xuống các Điều 25 và 26 nhưng phải tham khảo mô hình các nước để quy định với phạm vi hẹp hơn, cụ thể hơn, như chỉ áp dụng cho nghiên cứu phát triển mô hình AI thử nghiệm và cam kết phi thương mại... Phải cực kỳ cẩn thận để tránh vi phạm điều ước quốc tế về SHTT.
Tương tự, đối với Luật AI, mặc dù Dự thảo mới nhất đã xử lý được nguy cơ xung đột trực tiếp với Luật SHTT, nhưng không đưa ra bất kỳ cơ chế thực chất nào để bảo đảm quyền SHTT trong bối cảnh huấn luyện AI. Vẫn còn một khoảng trống lập pháp rất lớn, đặc biệt liên quan đến minh bạch dữ liệu, công cụ quản trị quyền, trách nhiệm đối với sản phẩm AI và tiêu chuẩn lưu giữ nguồn dữ liệu. Chỉ khi hai đạo luật được thiết kế theo hướng bảo đảm quyền SHTT trước, thúc đẩy AI sau, Việt Nam mới đạt được cân bằng giữa phát triển và bảo vệ hệ sinh thái sáng tạo.
Riêng đối với mục tiêu kép trong phát triển AI, cần làm rõ rằng việc khai thác dữ liệu trong vận hành mô hình AI là điều không thể tránh khỏi. Nói cách khác, nguy cơ không đến từ việc luật SHTT cho phép AI sử dụng dữ liệu mà đến từ việc tạo ra quy định mở quá rộng nhưng không đi kèm công cụ bảo vệ thực chất. Việc đặt quyền SHTT làm nền tảng không làm chậm đổi mới. Ngược lại, đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam phát triển AI bền vững và có chủ quyền.
Đáng lưu ý, khi thị trường SHTT còn phân mảnh, Việt Nam vẫn đang thiếu các tổ chức đại diện tập thể đủ năng lực để thương lượng và quản lý dữ liệu ở quy mô lớn. Chúng ta cũng cũng chưa có hạ tầng kỹ thuật để truy vết, đo lường hay định lượng mức độ sử dụng tác phẩm trong quá trình huấn luyện, một hoạt động vốn mang tính “hộp đen”.
Khi chưa có cơ chế định giá và biểu giá thống nhất, việc cấp phép đòi hỏi sự tham gia của các chuyên gia, làm tăng chi phí giao dịch. Quan trọng hơn, ngay cả khi đã cấp phép, tác giả và chủ sở hữu quyền vẫn không thể kiểm soát hoặc đánh giá tác động của việc mô phỏng phong cách và khai thác giá trị từ tác phẩm của họ. Do đó, chỉ dựa vào cơ chế cấp phép (licensing) trong luật SHTT có lẽ không khả thi.
Một hướng tiếp cận cân bằng, kết hợp giải pháp kỹ thuật, pháp lý và kinh tế sẽ có lợi hơn. Cụ thể, các cơ chế nên được bổ sung vào Luật AI bao gồm: (i) Kiểm soát bằng biện pháp kỹ thuật như ban hành tiêu chuẩn tín hiệu từ chối sử dụng dữ liệu; (i) Yêu cầu các mô hình minh bạch nguồn dữ liệu, lịch sử thu thập dữ liệu.., trong huấn luyện AI và (iii) Xây dựng cơ chế bồi hoàn tập thể thông qua việc thu phí từ mô hình AI thương mại và phân bổ lại cho cộng đồng sáng tạo. Những quy định này không những khả thi, mà còn giúp hướng dẫn các mô hình AI hoạt động hiệu quả, tuân thủ tại Việt Nam.
Mặc dù có ý kiến lo ngại rằng, việc đặt ra nghĩa vụ tuân thủ nghiêm ngặt có thể kìm hãm đổi mới sáng tạo, các nghiên cứu học thuật và bằng chứng thực nghiệm cho thấy các thị trường công nghệ mới nổi thường phản ứng theo cùng một quy luật. Khi khung pháp lý rõ ràng và ổn định, niềm tin của thị trường được củng cố thay vì bị suy giảm. Điều này gợi mở một bài học quan trọng cho bối cảnh AI.
Đối với Việt Nam, việc thu hút và phát triển một hệ sinh thái AI bền vững không phụ thuộc vào việc nới lỏng tối đa nghĩa vụ, mà ở khả năng xây dựng một môi trường nơi các doanh nghiệp minh bạch, tuân thủ và có trách nhiệm được khuyến khích phát triển. Để bứt phá trong cuộc đua toàn cầu, Việt Nam không cần mạo hiểm với những thí nghiệm pháp lý quá táo bạo vốn tiềm ẩn rủi ro hệ thống. Điều cần thiết hơn là một khuôn khổ pháp luật ổn định, có thể dự đoán và bảo đảm an toàn cho tất cả chủ thể liên quan./.
