Đường phố gọi tên người làm báo: Dấu son của một thời dấn thân

16:07, 26/06/2025

Tại Việt Nam, có hàng trăm con đường mang tên những danh nhân, anh hùng và đặc biệt, không thể không nhắc đến những nhà báo cách mạng. Họ là những người đã dùng ngòi bút làm vũ khí, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cho tiếng nói của Nhân dân. Những con đường mang tên họ không chỉ là dấu mốc địa lý, mà còn là dấu ấn tri ân sâu sắc của thế hệ mai sau.

Trải qua 100 năm xây dựng và phát triển (1925 - 2025), có rất nhiều các nhà báo lão thành đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam. Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ là những nhà báo đã dùng cây bút, trang giấy làm vũ khí sắc bén, chiến đấu cho mục đích vẻ vang của cách mạng trước đây và xây dựng đất nước sau này. Để vinh danh và tri ân, nhiều địa phương đã đặt tên cho những con đường mang tên các nhà báo cách mạng. Đây không chỉ là sự ghi nhận đóng góp của họ cho nền báo chí nước nhà, mà còn là minh chứng sống động cho sức mạnh của báo chí trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do và công lý.

Nhà báo Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947)

Nguyên tên ông là Huỳnh Văn Thước (còn có tên là Huỳnh Hanh), quê quán tại làng Thạnh Bình (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Ông là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà báo lỗi lạc của lịch sử nước nhà.

Ông tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp. Bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo 13 năm. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1946 - 1947), Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày 31/5 đến 21/10/1946. Năm 1947, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ông được đặc phái vào Liên khu V và mất tại Quảng Ngãi. Sau khi qua đời, ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng - phần thưởng cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam vào năm 2013.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhà báo Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, thứ nhất từ phải sang) trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệu

Về sự nghiệp báo chí, ông là chủ bút của tờ báo Tiếng Dân ra đời năm 1927 nhằm đấu tranh công khai bằng ngôn luận với chế độ thực dân. Tiếng Dân là tờ nhật báo duy nhất xuất hiện trước năm 1930. Trong 16 năm, Tiếng Dân đã ra đời 1.766 số báo quốc ngữ, với hàng nghìn bài báo do ông viết. Qua mỗi bài, người đọc đều nhận thấy được khí phách của nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng trong đó.“Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng” là ngôi trường mang tên ông do Bác Hồ đặt tên. Hiện nay có nhiều thành phố và tỉnh thành trên cả nước đã đặt tên đường mang tên Huỳnh Thúc Kháng nhằm tưởng nhớ và tôn vinh những đóng góp to lớn của ông đối với sự nghiệp cách mạng và báo chí Việt Nam như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cà Mau. 

Nhà báo Xuân Thuỷ(1912 - 1985)

Ông có tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh năm 1912, quê ở xã Xuân Trường, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông tham gia cách mạng từ sớm, là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1929. Ông hoạt động tích cực trong phong trào yêu nước, từng bị thực dân Pháp bắt giam nhiều lần. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia hoạt động báo chí sôi nổi, trở thành một trong những cây bút chủ lực của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Năm 1945, Xuân Thủy là Tổng Biên tập báo Cứu Quốc - cơ quan ngôn luận của Mặt trận Việt Minh, sau này là cơ quan tuyên truyền quan trọng của Đảng và Chính phủ. Ông từng là Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam khóa đầu tiên (nhiệm kỳ 1950 - 1959). Với vai trò này, ông góp phần xây dựng nền tảng lý luận và tổ chức cho đội ngũ báo chí cách mạng.

Sau sự nghiệp báo chí, Xuân Thủy còn giữ nhiều chức vụ quan trọng: Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam (1968 - 1973); Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (1963 - 1965); Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.

Ông được Nhà nước truy tặng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao vàng; Huân chương Hồ Chí Minh; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 - năm 1996).

Hiện nay, đường Xuân Thủy là một tuyến phố lớn thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội - nơi có nhiều trường đại học và cơ sở nghiên cứu. Đây là con đường đặt theo tên ông để ghi nhớ công lao của một nhà báo, nhà ngoại giao lớn của đất nước. 

Ban Giám đốc Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng, năm 1949. Trong ảnh, từ trái qua: Đồ Phồn, Xuân Thủy, Đỗ Đức Dục, Tú Mỡ, Như Phong. Ảnh: Bảo tàng Báo chí Việt Nam.

Nhà báo Đỗ Đức Dục(1915 - 1993)

Ông sinh ra tại làng Xuân Tảo, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Ông tốt nghiệp Trường Bưởi, Trường Trung học Albert Sarraut và cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương năm 1938.

Đỗ Đức Dục gia nhập Đảng Dân chủ Việt Nam năm 1944, tham gia Hội nghị Tân Trào năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng như Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh (1947 - 1950), Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt (1950 - 1955), Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam khóa I (1950 - 1960).

Sinh thời, nhà báo Đỗ Đức Dục viết khoảng 83 bài trên báo Thanh nghị (1941 - 1945) và 339 bài trên báo Độc lập (1945 - 1988), trong đó có 43 bài trong thời gian 1945 - 1946 (trước khi Toàn quốc kháng chiến diễn ra) và 247 bài trên Tờ Độc lập (bao gồm cả tạp chí và tuần báo) từ năm 1948 đến năm 1959 và 49 bài trên báo Độc lập từ năm 1961 đến năm 1988.

Thời kỳ còn làm Giám đốc trường Viết báo Huỳnh Thúc Kháng năm 1949, ông đã có nhiều đóng góp nổi bật. Không chỉ đảm nhận công tác quản lý, ông còn trực tiếp lên lớp giảng bài. Học viên sau khi tốt nghiệp, nhiều người đã trở thành những cây bút xuất sắc như nhà báo Hải Như, nhà báo Mai Thanh Hải, nhà báo Trần Kiên, nhà báo Lý Thị Trung; nhiều người chuyển sang những lĩnh vực khác cũng tạo dấu ấn như bà Phạm Thị Mai Cương - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính, đạo diễn Bành Châu, đạo diễn Trần Vũ...

Những đóng góp của nhà báo Đỗ Đức Dục trong quá khứ vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa sâu sắc đối với những người làm báo hôm nay. Việc hai con đường tại Hà Nội và TP.HCM được mang tên ông chính là minh chứng cho tầm ảnh hưởng lớn lao của ông đối với nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Nhà báo Trần Huy Liệu(1901 - 1969)

Ông quê ở làng Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông có bút danh chính là "Nam Kiều" và nhiều bút hiệu khác như "Đẩu Nam", "Hải Khách", "Côi Vị", "Ẩm Hân Kiếm Bút".

Năm 1923, sau khi rời quê hương Nam Định vào Sài Gòn, Trần Huy Liệu bắt đầu sự nghiệp báo chí với vai trò cộng tác viên và sau đó là chủ bút của các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Ngòi bút sắt và đặc biệt là Đông Pháp thời báo. Năm 1929, ông bị thực dân Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. Tại đây, ông vẫn tiếp tục hoạt động báo chí với bút danh "Hải Khách", làm chủ bút các tờ báo như Hòn Cau và Tiếng sóng bể, nhằm động viên tinh thần các tù nhân và duy trì ngọn lửa cách mạng.

Năm 1938, ông giữ vai trò Chủ bút báo Tin tức, một tờ báo công khai của Đảng, nhằm tuyên truyền chủ trương của Đảng đến các tầng lớp Nhân dân. Trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù Sơn La và trại tập trung Bá Vân (1942 - 1944), Trần Huy Liệu vẫn tiếp tục làm báo, với các tờ như Suối Reo, Dòng sông Công và Đường Nghĩa.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trần Huy Liệu được giao giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời. Ông tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp báo chí và văn hóa, giữ vai trò Chủ nhiệm Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử từ năm 1960 và là Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Tên của ông được đặt cho một con đường ở khu vực phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội; một con đường tại phường Trường Thi, TP Nam Định; một con đường ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La; một con đường tại quận Phú Nhuận, TP. HCM và một con đường tại Quận Kiến An, TP Hải Phòng.

Nhà báo Lưu Quý Kỳ(1919 - 1982)

Ông sinh năm 1919 tại làng Hóa Đông, xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Xuất thân trong một gia đình nghèo, cha làm thợ cắt tóc, mẹ buôn bán nhỏ, ông sớm tiếp xúc với báo chí yêu nước và bắt đầu viết từ năm 15 tuổi. Năm 16 tuổi, ông có truyện ngắn “Vượt ngục” đăng trên báo Tin Vắn tại Hà Nội.

Năm 1937, sau khi tham gia phong trào bãi khóa tại Trường Kỹ nghệ thực hành Huế, ông bị đuổi học và quyết định dấn thân vào con đường cách mạng. Ông đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng như Bí thư Liên đoàn Thanh niên Dân chủ Nam Kỳ, Tổng thư ký Ban vận động Đông Dương Văn sĩ Tả phái Liên đoàn, và chủ bút các tờ báo cách mạng như Dân Tiến, Dân Muốn, Tiến Tới.

Từ cuối năm 1945 đến năm 1948, ông lần lượt làm Chủ nhiệm báo Quyết Thắng và Tạp chí Ánh Sáng, thường trực Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ, Chủ bút Báo Cứu Quốc của Liên khu 4, Ban biên tập Tạp chí Văn nghệ Sáng Tạo. Tháng 8/1948, nhà báo Lưu Quý Kỳ vào Nam Bộ, tại đây, ông được cử làm Trưởng ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin, Giám đốc Đài Tiếng nói Nam Bộ, đồng thời là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ; làm Chủ bút Tạp chí Thống Nhất - cơ quan của Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Nam Bộ, Chủ bút báo Nhân Dân miền Nam, Chủ nhiệm Tạp chí Lá Lúa - cơ quan của Hội Văn nghệ kháng chiến Nam Bộ.

Từ năm 1954, ông được cử làm Vụ trưởng Báo chí của Ban Tuyên huấn Trung ương. Từ năm 1962, làm Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, Thư ký Tòa soạn báo Thống Nhất, ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong suốt 47 năm hoạt động liên tục, ông đã có trên 3.000 bài báo, 27 đầu sách được xuất bản và có đóng góp tích cực vào việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà báo nước nhà.

Với những thành tích trong cuộc đời hoạt động của mình, Lưu Quý Kỳ vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc. Ông còn được tặng thưởng 6 huy chương của nước ngoài, trong đó có Huy chương “Nhà báo cống hiến cho sự nghiệp báo chí dân chủ quốc tế” của OIJ năm 1971, Huy chương “Nhà báo cống hiến cho hòa bình và hữu nghị” năm 1979.

Để tưởng nhớ và tri ân những đóng góp to lớn của ông, nhiều địa phương đã đặt tên đường Lưu Quý Kỳ như TP. HCM, Đà Nẵng và Quảng Nam. 

Nhà báo Trần Kim Xuyến (1921 - 1947)

Ông là nhà báo Việt Nam đầu tiên hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Trần Kim Xuyến sinh năm 1921 tại xã Sơn Mỹ (nay là Tân Mỹ Hà), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi tốt nghiệp Trường Quốc học Vinh, ông làm việc tại tòa sứ tỉnh Bắc Giang. Năm 1943, ông chuyển về Hà Nội hoạt động cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được Bác Hồ chỉ thị tham gia thành lập Đài phát thanh Quốc gia và được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Nha Thông tin (tiền thân của Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ngày nay), là đơn vị thuộc Bộ Thông tin Tuyên truyền. Ông được giao trực tiếp phụ trách Việt Nam Thông tấn xã.

Tháng 1/1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I tại tỉnh Bắc Giang, trở thành một trong những đại biểu trẻ tuổi nhất thời bấy giờ. Ngày 3/3/1947, trong một cuộc tấn công của thực dân Pháp nhằm vào đài phát sóng tại chùa Trầm, Trần Kim Xuyến đã anh dũng hy sinh khi đang chỉ huy việc sơ tán tài liệu quan trọng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông còn cố gắng hô to: “Việt Nam hoàn toàn độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.

Sau khi hy sinh, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và Huân chương Độc lập hạng Nhì. Tên ông được đặt cho các tuyến đường ở nhiều tỉnh, thành như Hà Nội (quận Cầu Giấy, năm 2014); Hà Tĩnh (Huyện Hương Sơn, năm 2017) và ở TP. Bắc Giang (năm 2023). 

Đường Trần Kim Xuyến và đường Đào Tùng tại TP Bắc Giang được gắn biển tên ngày 8/9/2023. Ảnh TTXVN

Nhà báo Đào Tùng(1925 - 1990)

Ông tên thật là Đỗ Trung Thành, sinh năm 1925 quê ở Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Từ tháng 5/1966, ông là Tổng Biên tập Việt Nam Thông tấn xã và từ năm 1977 ông là Tổng Giám đốc kiêm Tổng Biên tập Thông tấn xã Việt Nam cho đến khi qua đời. Từ những năm 1970, nhà báo Đào Tùng đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội Nhà báo Việt Nam; ông cũng có đóng góp quan trọng cho Tổ chức quốc tế các Nhà báo (OIJ) trong vai trò Phó Chủ tịch OIJ.

Ngoài ra, ông còn giữ nhiều trọng trách khác như: Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Campuchia…

Đánh giá cao những cống hiến của nhà báo Đào Tùng, Đảng và Nhà nước đã trao tặng ông Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.Con đường mang tên nhà báo Đào Tùng nằm trên địa bàn xã Tân Mỹ ở TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang được gắn biển tên vào đúng dịp kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Thông tấn xã Việt Nam (15/9/2023).

Nhà báo Hoàng Tùng(1920 - 2010)

Ông tên thật là Trần Khánh Thọ, sinh năm 1920 tại xã Nhân Hòa, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 17 tuổi. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà tù Sơn La, nơi ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và bắt đầu học làm báo trong tù. Tại đây, ông tham gia viết báo Suối Reo, một tờ báo bí mật của các tù nhân cách mạng.

Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt động báo chí và giữ nhiều vị trí quan trọng: Chủ nhiệm báo Sự Thật (1950); Tổng Biên tập báo Nhân Dân từ năm 1954 đến 1982, trở thành Tổng Biên tập có thời gian công tác lâu nhất tại cơ quan ngôn luận của Đảng; Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật từ năm 1987 đến 1989.

Ngoài ra, ông còn giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng như Bí thư Trung ương Đảng khóa V, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) và là đại biểu Quốc hội các khóa III đến VII.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng và báo chí, nhà báo Hoàng Tùng đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Tự do hạng Nhất do Đảng và Nhà nước Lào trao tặng.

Để tri ân những đóng góp của nhà báo Hoàng Tùng, nhiều địa phương đã lấy tên ông để đặt cho các tuyến đường như Hà Nội và Hà Nam. 

Nhà báo Lâm Hồng Long (1925 - 1997)

Ông sinh năm 1925 tại xã Phước Lộc, thị trấn La Gi, huyện Hàm Tân (nay là thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận). Ông tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở Phan Thiết ngày 24/8/1945; hoạt động trong phong trào Hoa kiều chống Pháp; từng bị bắt và giam giữ bởi thực dân Pháp.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông tập kết ra Bắc và trở thành phóng viên nhiếp ảnh của Thông tấn xã Việt Nam, chuyên chụp ảnh về công nghiệp, nông nghiệp và các hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1961, ông được cử sang Lào để giúp xây dựng bộ phận nhiếp ảnh cho Thông tấn xã Lào.

Bức ảnh “Bác Hồ bắt nhịp bài ca Kết đoàn” của nhà báo Lâm Hồng Long chụp vào năm 1960. Ảnh tư liệu.

Nhà báo Lâm Hồng Long tham gia tổ phóng viên mũi nhọn của Thông tấn xã Việt Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, ghi lại nhiều khoảnh khắc lịch sử trong quá trình giải phóng miền Nam. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996) cho hai tác phẩm “Bác Hồ bắt nhịp bài ca Kết đoàn” và “Mẹ con ngày gặp mặt”.

Để tưởng nhớ và vinh danh ông, năm 2002, tỉnh Bình Thuận đặt tên đường Lâm Hồng Long, 5 năm sau khi nhà báo qua đời

Những con đường mang tên các nhà báo cách mạng Việt Nam không chỉ là một phần của bản đồ đô thị mà còn là một phần của ký ức và lịch sử dân tộc. Những con đường ấy, không chỉ là sự tưởng nhớ mà còn là nguồn cảm hứng cho những người làm báo hôm nay. Đó là lời nhắc nhở về sự dấn thân, về trách nhiệm xã hội, và về một ngòi bút phải luôn trung thực, khách quan, phục vụ lợi ích của Nhân dân.