Giải pháp chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong hoạt động truyền thông khoa học của tạp chí khoa học
Chuyển đổi số (CĐS), đổi mới sáng tạo (ĐMST) của tạp chí khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nhận diện xu hướng phát triển, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng truyền thông khoa học của các tạp chí khoa học trong thời kỳ số hóa.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, CĐS trở thành xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động của báo chí, truyền thông và xuất bản khoa học.
Các tạp chí khoa học không chỉ đóng vai trò là kênh công bố kết quả nghiên cứu, mà còn là thiết chế lan tỏa tri thức, góp phần định hướng tư tưởng, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.
Trước yêu cầu mới, các tạp chí khoa học buộc phải đổi mới phương thức hoạt động, ứng dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả biên tập, xuất bản, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, nâng tầm uy tín học thuật.
Do đó, CĐS, ĐMST của tạp chí khoa học hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nhận diện xu hướng phát triển, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng truyền thông khoa học của các tạp chí khoa học trong thời kỳ số hóa.
Vai trò của CĐS và ĐMST đối với truyền thông khoa học
Tại Hội thảo khoa học “Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam với việc CĐS” diễn ra mới đây, TS. Trịnh Quốc Việt, Viện Khoa học xã hội và Nhân văn quân sự, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng cho biết: Hiện nay, cuộc CMCN 4.0 tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đi kèm với đó là sự bùng nổ của không gian thông tin số, do đó, tạp chí khoa học không chỉ là thiết chế xuất bản phục vụ cộng đồng nghiên cứu, mà còn là chủ thể truyền thông khoa học quan trọng, có sứ mệnh kết nối tri thức hàn lâm với đời sống xã hội.
Để hoàn thành sứ mệnh đó, CĐS và ĐMST trở thành xu thế tất yếu, tạo ra những thay đổi mang tính cấu trúc trong phương thức tổ chức nội dung, quản trị quy trình và lan tỏa thông tin khoa học.
TS. Hoàng Phương Mai, Viện Dân tộc học và Tôn giáo học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nêu rõ: Trong kỷ nguyên số, CĐS và ĐMST không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với mọi lĩnh vực, đặc biệt là khoa học và truyền thông khoa học.
Các tạp chí khoa học, với tư cách là thiết chế học thuật và truyền thông tri thức chuyên sâu, đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn lao trong việc thích nghi với môi trường xuất bản mới - nơi công nghệ, dữ liệu và tốc độ lan truyền thông tin trở thành yếu tố quyết định.

Ảnh: baochinhphu.vn.
Những vấn đề đặt ra đối với tạp chí khoa học trong thời đại số
Theo TS. Trịnh Quốc Việt, trong bối cảnh bùng nổ công nghệ số, độc giả khoa học không còn tiếp cận tri thức bằng cách chờ đợi số báo in như trước đây. Giờ đây, hành vi tiếp nhận thông tin đang thay đổi theo ba chiều hướng chính:
Một là, nhu cầu truy cập nhanh, tra cứu linh hoạt. Độc giả muốn tìm bài báo khoa học chỉ với vài thao tác trên thiết bị di động thông minh hoặc máy tính kết nối Internet. Do đó, các yêu cầu như tìm kiếm nâng cao, lọc theo DOI, chủ đề, tác giả, ngành đào tạo, ngày xuất bản… trở thành tiêu chuẩn bắt buộc với các tạp chí khoa học hiện nay.
Hai là, thị hiếu ưa chuộng nội dung đa phương tiện. Infographic, video tóm tắt, podcast giới thiệu nghiên cứu được đón nhận nhiều hơn so với các bản PDF truyền thống. Điều này buộc tạp chí khoa học phải mở rộng hình thức truyền tải tri thức, chứ không chỉ xuất bản văn bản in thuần túy.
Ba là, văn hóa đọc chuyển sang không gian số. Các nghiên cứu cho thấy, hơn 70% độc giả trẻ tiếp cận nội dung khoa học qua mạng xã hội, cổng dữ liệu học thuật và thư viện số. Do vậy, việc tạp chí khoa học có mặt trên các nền tảng số trở thành yêu cầu tất yếu.
Bên cạnh đó, việc tham gia các hệ thống uy tín như Scopus, Web of Science, DOAJ đòi hỏi tạp chí khoa học của Việt Nam phải chuẩn hóa theo bộ tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, không gian mạng hiện nay vừa là cơ hội lan tỏa tri thức, vừa là nơi xuất hiện nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, vấn đề đặt ra, là các tạp chí khoa học với vai trò cung cấp, lan toả và khẳng kết quả nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ: Cung cấp nguồn thông tin chính thống, chuẩn xác; phổ biến kết quả nghiên cứu một cách dễ hiểu, hấp dẫn; tham gia đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái bằng các luận cứ khoa học thuyết phục; tăng cường tiếp cận công chúng thông qua công nghệ số, đổi mới sáng tạo.

Bạn đọc trải nghiệm nghiệm các sản phẩm báo chí số tại Hội báo toàn quốc năm 2024. Nguồn: nld.com.vn.
Giải pháp CĐS, ĐMST trong hoạt động truyền thông khoa học của tạp chí khoa học
Từ yêu cầu và thực tế nêu trên, TS. Trịnh Quốc Việt nhấn mạnh, việc xác định các định hướng giải pháp toàn diện, bao gồm hạ tầng công nghệ, đổi mới sản phẩm truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ chế chính sách và mở rộng hợp tác trong nước, quốc tế là hết sức cần thiết.
Thứ nhất, về hạ tầng, công nghệ và hệ sinh thái số.
Các tạp chí khoa học cần xây dựng và hoàn thiện nền tảng xuất bản điện tử theo chuẩn quốc tế. Việc áp dụng các hệ thống quản lý tạp chí trực tuyến như OJS sẽ giúp chuẩn hóa toàn bộ quy trình nộp bài, phản biện, biên tập và xuất bản.
Cùng với đó, cần thực hiện cấp mã mã định danh quốc tế (DOI) cho bài viết, liên kết với các hệ thống nhận dạng tác giả như ORCID và tham gia các cơ sở dữ liệu quốc tế nhằm nâng cao khả năng truy cập, tìm kiếm và chỉ mục.
Bên cạnh nền tảng xuất bản, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong biên tập và truyền thông khoa học cũng là bước đột phá quan trọng.
Thứ hai, về đổi mới sản phẩm và hình thức truyền thông khoa học.
Một phương diện quan trọng khác là đổi mới sản phẩm và hình thức truyền thông khoa học. Trong kỷ nguyên số, cách thức truyền tải thông tin khoa học cần đa dạng, ngắn gọn, trực quan hơn, để phù hợp với hành vi tiếp nhận thông tin mới của người đọc.
Tạp chí khoa học cần phát triển các sản phẩm như infographic tóm tắt nghiên cứu, video khoa học, podcast phỏng vấn tác giả, bản tin nghiên cứu và bài viết phổ biến khoa học dành cho người không chuyên.
Bên cạnh đó, truyền thông đa nền tảng là xu thế tất yếu, nên tạp chí khoa học cần hiện diện trên các mạng xã hội như Facebook, YouTube, LinkedIn, TikTok, đồng thời phát triển ứng dụng di động nhằm mở rộng khả năng tiếp cận độc giả và tăng mức độ tương tác.
Thứ ba, về tổ chức, quản trị và phát triển nhân lực.
Bên cạnh đổi mới sản phẩm, việc củng cố mô hình tổ chức và phát triển nhân lực là yếu tố quyết định hiệu quả truyền thông khoa học. Các tạp chí khoa học cần thực hiện chuyển đổi mô hình quản trị theo hướng số hóa, tự động hóa quy trình làm việc, sử dụng cơ sở dữ liệu chung cho các bộ phận, đồng thời áp dụng các công cụ quản lý dự án và luồng công việc (workflow).
Quan trọng hơn, cần xây dựng đội ngũ làm truyền thông khoa học chuyên nghiệp, có kiến thức nền tảng về khoa học, kĩ năng truyền thông hiện đại và khả năng ứng dụng công nghệ trong sản xuất nội dung.
Thứ tư, về cơ chế, chính sách và nâng cao chất lượng chuẩn mực khoa học.
Các tạp chí khoa học cần tuân thủ và thường xuyên nghiên cứu quy trình biên tập, phản biện bài báo khoa học, tìm ra các bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện, từ đó, kiến nghị hoàn thiện khung chính sách liên quan đến xuất bản số và khoa học mở.
Theo đó, hoàn thiện cơ chế, chính sách về chuẩn mực khoa học cần bao gồm: Quy định về bản quyền số; chính sách lưu chiểu điện tử; các tiêu chuẩn về đạo đức học thuật, minh bạch quy trình phản biện và chính sách truy cập mở phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế.
Đồng thời, các tạp chí khoa học cần áp dụng hệ thống tiêu chí đánh giá hiện đại, không chỉ dựa trên trích dẫn học thuật mà còn dựa trên chỉ số altmetrics phản ánh tác động xã hội của nghiên cứu, qua đó, nâng cao chất lượng bài báo khoa học.
Đặc biệt, việc ưu tiên các nghiên cứu có khả năng ứng dụng cao, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, CĐS và ĐMST cũng góp phần nâng cao tính thực tiễn và khả năng truyền thông khoa học của các tạp chí.
Thứ năm, về hợp tác, liên kết và mở rộng không gian truyền thông khoa học.
Mở rộng hợp tác và liên kết là giải pháp quan trọng để nâng cao vị thế của các tạp chí khoa học trong bối cảnh kỷ nguyên số hiện nay. Các tạp chí khoa học cần tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan truyền thông, tổ chức quốc tế, nhằm chia sẻ dữ liệu, đồng tổ chức sự kiện, quảng bá các kết quả nghiên cứu mới.
Đi liền đó, chú trọng xây dựng thương hiệu tạp chí trong môi trường số thông qua bộ nhận diện thương hiệu, phong cách truyền thông thống nhất, xuất bản đều đặn, bảo đảm chất lượng và giữ vững chuẩn mực học thuật.
Ngoài ra, hoạt động truyền thông khoa học của các tạp chí cần gắn với chiến lược CĐS và ĐMST quốc gia, đóng vai trò cầu nối giữa nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp và công chúng./.
