Kiểm định chất lượng giáo dục: Từ ‘người gác cổng’ đến ‘người đồng hành’
Đội ngũ kiểm định viên – lực lượng then chốt trong bảo đảm chất lượng các cơ sở giáo dục đại học – hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt và mất cân đối về cơ cấu, vùng miền. Dù công tác bồi dưỡng, cấp thẻ đã có bước tiến đáng kể, song những khoảng trống về nhân lực và chuyên môn vẫn là thách thức lớn đối với tiến trình đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.

Cần tiếp tục củng cố năng lực và cân đối đội ngũ kiểm định viên.
Bổ sung lực lượng kiểm định viên: Cân bằng kinh nghiệm và sức trẻ
Hiện cả nước có 5 trung tâm được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo, bồi dưỡng kiểm định viên, trong đó 2 trung tâm hoạt động lâu năm và 3 trung tâm mới được cấp phép gần đây, tổng số kiểm định viên đang hoạt động hiện nay là 544 người.
PGS.TS. Nguyễn Phương Nga, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho biết, đội ngũ kiểm định viên hiện có cơ cấu độ tuổi tương đối hợp lý, trong đó nhóm 41–50 tuổi chiếm gần một nửa (47,98%) lực lượng nòng cốt với nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Nhóm 51–70 tuổi, được xem là giai đoạn "chín" về chuyên môn, chiếm 39,15%, còn dưới 40 tuổi chỉ chiếm 11,58% và trên 70 tuổi là 1,29%.
Xét về học hàm, học vị, 64,9% kiểm định viên có trình độ tiến sĩ trở lên (bao gồm tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư), đủ điều kiện kiểm định chương trình đào tạo sau đại học. Nhóm có trình độ thạc sĩ chiếm 24,08%, chỉ được tham gia kiểm định bậc đại học; 11,03% còn lại chưa có dữ liệu học vị đầy đủ.
PGS Phương Nga cho biết, đội ngũ này đến từ nhiều vị trí công tác khác nhau như giảng viên, chuyên viên, trưởng hoặc phó đơn vị, song chỉ có 26,65% là lãnh đạo các cơ sở giáo dục hoặc tương đương là những người đủ điều kiện làm trưởng đoàn đánh giá. Tỷ lệ thấp khiến các trưởng đoàn hiện nay thường xuyên trong tình trạng quá tải vì phải tham gia liên tục nhiều đợt kiểm định.
Bên cạnh đó, sự mất cân đối vùng miền cũng là thách thức đáng kể. Hà Nội hiện chiếm 44,12% tổng số kiểm định viên, trong khi TP.HCM và các tỉnh phía Nam chỉ đạt 26,29%. Việc tập trung quá lớn ở khu vực phía Bắc khiến công tác kiểm định gặp khó khăn về chi phí, thời gian di chuyển và tổ chức.
Bức tranh tổng thể cho thấy đội ngũ kiểm định viên tuy đã hình thành nền tảng khá vững, song vẫn còn những bất cập về phân bố và chuyên môn sâu.
Khoảng trống trong các lĩnh vực đào tạo
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Phương Nga, sự thiếu hụt kiểm định viên theo lĩnh vực đào tạo đang là thách thức nghiêm trọng. Có hai lĩnh vực hoàn toàn không có kiểm định viên: dịch vụ xã hội và du lịch – khách sạn – thể thao – dịch vụ cá nhân.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực chỉ có duy nhất một kiểm định viên như nghệ thuật, thú y, vận tải, an ninh – quốc phòng. Trong khi đó, nhiều ngành đào tạo đặc thù như mỹ thuật, sân khấu – điện ảnh hay nghệ thuật công nghiệp đều đang có nhu cầu kiểm định lớn nhưng không đủ người thực hiện.
Ngược lại, nhóm ngành khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên lại có số lượng kiểm định viên đông đảo nhất. Tuy nhiên, phần lớn các nhóm ngành còn lại chỉ có từ ba đến sáu kiểm định viên là mức quá thấp so với nhu cầu thực tế.
Từ các số liệu trên, có thể thấy những khó khăn chính của đội ngũ kiểm định viên hiện nay gồm: thiếu trưởng đoàn do tỷ lệ lãnh đạo có thẻ thấp; phân bố vùng miền không đồng đều; thiếu hụt nhân lực ở nhiều lĩnh vực chuyên ngành; nhiều kiểm định viên chưa đạt học vị đủ để kiểm định bậc cao học; ít cơ hội nâng cao năng lực và giao lưu quốc tế; cán bộ quản lý nhà nước chưa trực tiếp tham gia kiểm định nên khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn còn lớn.
Giải pháp: Mở rộng, chuyên sâu và gắn kết thực tiễn
PGS.TS. Nguyễn Phương Nga đề xuất một loạt giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên.
Thứ nhất, về chính sách nhân sự, cần khuyến khích lãnh đạo các cơ sở giáo dục tham gia thi lấy thẻ kiểm định viên để tăng nguồn trưởng đoàn; đồng thời quy định bắt buộc trưởng đơn vị đảm bảo chất lượng trong trường đại học phải có thẻ kiểm định viên. Mỗi nhóm ngành đào tạo tại một cơ sở giáo dục nên có ít nhất một kiểm định viên nội bộ để đáp ứng nhu cầu tự kiểm định.
Thứ hai, cần chú trọng phát triển đội ngũ theo hướng bền vững. Khuyến khích độ tuổi 45–50 tham gia sát hạch – đây là nhóm giàu kinh nghiệm, ổn định và có khả năng cống hiến lâu dài. Các cơ sở giáo dục nên hỗ trợ tài chính, tạo điều kiện cho kiểm định viên học lên tiến sĩ hoặc phấn đấu đạt học hàm phó giáo sư, giáo sư.
Thứ ba, về năng lực chuyên môn, cần tổ chức các hội thảo, tọa đàm, workshop hằng năm để trao đổi kinh nghiệm giữa các kiểm định viên trong nước; đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, tạo cơ hội cho kiểm định viên Việt Nam tham gia làm quan sát viên hoặc kiểm định viên tại các tổ chức nước ngoài.
PGS.TS Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gắn kết giữa người làm chính sách và người thực hiện. Bà kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tạo điều kiện cho các cán bộ, chuyên viên trực tiếp thi lấy thẻ kiểm định viên và tham gia hoạt động đánh giá ngoài. Chỉ khi có trải nghiệm thực tế, đội ngũ làm chính sách mới hiểu sâu sắc hơn về những khó khăn, thách thức của hoạt động kiểm định – từ đó đưa ra các quyết sách phù hợp, khả thi và sát thực tiễn hơn.

Nâng cao chất lượng kiểm định là yêu cầu cấp thiết của giáo dục đại học.
Tái định vị vai trò của tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, việc nâng cao chất lượng và đảm bảo tính bền vững của hệ thống đào tạo trở thành yêu cầu cấp thiết. PGS.TS Lê Ngọc Quỳnh Lam, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia TP.HCM, cho rằng đã đến lúc cần tái định vị vai trò của các tổ chức kiểm định, chuyển từ vị thế "đánh giá độc lập" sang "đối tác chiến lược" cùng đồng hành với các cơ sở giáo dục.
Trước đây, tại nhiều quốc gia, tổ chức kiểm định thường được ví như "người gác cổng", chịu trách nhiệm xem xét, đánh giá và công nhận các cơ sở hoặc chương trình đạt chuẩn chất lượng trong chu kỳ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay trên thế giới đã có sự thay đổi rõ rệt. Các tổ chức kiểm định không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả, mà còn đóng vai trò đồng hành, hỗ trợ các trường trong quá trình xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong, hướng đến cải tiến liên tục và phát triển bền vững.
Theo PGS.TS Lê Ngọc Quỳnh Lam, vai trò đồng hành của tổ chức kiểm định thể hiện qua ba khía cạnh cụ thể. Thứ nhất, là cùng các cơ sở giáo dục xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ, bao gồm việc hướng dẫn xây dựng chính sách, quy trình, công cụ phù hợp với sứ mạng, tầm nhìn và đặc thù của từng trường. Nhiều tổ chức kiểm định quốc tế không chỉ dừng ở việc tư vấn mà còn phát triển các hướng dẫn chuyên sâu, giúp nhà trường vận hành hiệu quả hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong.

PGS.TS Lê Ngọc Quỳnh Lam cho rằng đã đến lúc cần tái định vị vai trò của các tổ chức kiểm định.
Thứ hai, các tổ chức kiểm định cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau đánh giá. Thay vì chỉ đưa ra khuyến nghị, họ còn đồng hành cùng cơ sở giáo dục trong việc sử dụng dữ liệu, thông tin phản hồi để cải tiến chương trình đào tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực quản trị chất lượng. Việc duy trì mối quan hệ hỗ trợ lâu dài giữa tổ chức kiểm định và cơ sở giáo dục giúp đảm bảo chu trình cải tiến không bị gián đoạn.
Thứ ba, tổ chức kiểm định còn đóng vai trò là đầu mối kết nối các trường đại học thông qua các hội thảo, diễn đàn, khóa tập huấn. Đây là kênh chia sẻ những mô hình, kinh nghiệm tốt (best practices) và tạo dựng mạng lưới bảo đảm chất lượng trong toàn hệ thống. Khi các trường thường xuyên trao đổi, học hỏi lẫn nhau, hoạt động bảo đảm chất lượng sẽ trở thành một phần tự thân, ăn sâu vào tư duy và hành động của từng cán bộ, giảng viên, thay vì chỉ là nhiệm vụ phục vụ cho các đợt đánh giá định kỳ.
Từ đó, PGS.TS Lê Ngọc Quỳnh Lam nhấn mạnh rằng, các trung tâm kiểm định cần chuyển từ hình ảnh của một tổ chức đánh giá bên ngoài, đôi khi còn xa cách, trở thành đối tác tin cậy và nguồn lực chuyên môn mà các cơ sở giáo dục có thể tìm đến khi cần giải quyết các vấn đề về chất lượng. Đây chính là sự thay đổi mang tính chiến lược trong bối cảnh giáo dục đại học hướng đến phát triển bền vững.

Có thể học hỏi các mô hình nước ngoài về kiểm định chất lượng.
Bài học kinh nghiệm quốc tế về kiểm định chất lượng
Từ những nghiên cứu và quan sát quốc tế, PGS Quỳnh Lam cho biết, các tổ chức kiểm định QAA (Vương quốc Anh), TEQSA (Australia) và MQA (Malaysia), tuy có cách tiếp cận khác nhau nhưng cùng chia sẻ mục tiêu chung là duy trì chất lượng học thuật, bảo vệ tính toàn vẹn và danh tiếng của giáo dục đại học quốc gia. Các tổ chức này đều xây dựng những bộ công cụ hỗ trợ đa dạng, giúp cơ sở giáo dục thực hiện cải tiến chất lượng một cách chủ động và hiệu quả.
Từ kinh nghiệm của QAA (Vương quốc Anh), Việt Nam có thể học tập mô hình "tăng cường hợp tác" – nơi các trường cùng triển khai dự án, chia sẻ nguồn lực và kinh nghiệm, dưới sự kiến tạo của tổ chức kiểm định. Các trung tâm kiểm định trong nước hoàn toàn có thể trở thành "nhà kiến tạo hợp tác", khởi xướng những dự án liên trường nhằm chia sẻ và giải quyết các vấn đề chung về chất lượng.
Mô hình của TEQSA lại hướng đến việc hỗ trợ các trường xây dựng năng lực tự bảo đảm chất lượng thông qua các hướng dẫn, công cụ cụ thể và đa dạng hình thức. Cách làm này giúp các trường chủ động trong cải tiến nội bộ mà không phải phụ thuộc hoàn toàn vào đánh giá bên ngoài.
Trong khi đó, kinh nghiệm từ MQA (Malaysia) đặc biệt đáng chú ý: quốc gia này áp dụng cơ chế trao quyền tự chủ kiểm định dựa trên năng lực. Những cơ sở giáo dục có hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ mạnh sẽ được phép tự kiểm định. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy các trường không ngừng hoàn thiện năng lực nội bộ và củng cố niềm tin vào chất lượng thật.
Từ các kinh nghiệm quốc tế nêu trên, PGS.TS Lê Ngọc Quỳnh Lam đưa ra một số đề xuất cho Việt Nam. Trước hết, các tổ chức kiểm định chất lượng cần chủ động học hỏi và vận dụng sáng kiến quốc tế, triển khai các hoạt động đồng hành cùng cơ sở giáo dục, hướng tới nâng cao chất lượng bền vững. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, quy định và hỗ trợ các trung tâm kiểm định tăng cường hợp tác, kết nối với các tổ chức quốc tế, tiến tới được công nhận trong khu vực và trên thế giới.
Về phía các cơ sở giáo dục, PGS Quỳnh Lam nhấn mạnh rằng, kiểm định không phải là điểm kết thúc của một chu trình đánh giá, mà là khởi đầu cho một chu kỳ cải tiến mới. Khi các trường coi kiểm định là cơ hội để phát triển chứ không phải áp lực, hệ sinh thái chất lượng giáo dục đại học Việt Nam sẽ trưởng thành và bền vững hơn, với mối quan hệ hợp tác bình đẳng giữa cơ sở đào tạo và tổ chức kiểm định – những người cùng chung mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà.
Khi các trường và tổ chức kiểm định cùng chia sẻ trách nhiệm, coi kiểm định không phải là đích đến mà là động lực cải tiến, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam mới thực sự tiến gần tới chuẩn mực quốc tế.