Phát triển điện gió ngoài khơi: Cần những giải pháp đột phá
Mục tiêu đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 MW. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện 8 chưa xác định dự án điện gió ngoài khơi cụ thể nào, và cũng chưa có dự án nào được triển khai…
Việc sớm triển khai các dự án điện gió ngoài khơi là rất cần thiết để bảo đảm thực hiện được mục tiêu Quy hoạch điện 8 đề ra. Ảnh minh họa.
Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 442/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn về giải quyết vướng mắc phát triển điện gió ngoài khơi.
Khẩn trương thực hiện việc khảo sát điện gió ngoài khơi
Thông báo nêu: Điện là yếu tố đầu vào nền tảng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước. Đầu tư phát triển ngành điện là một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước; điện phải đi trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững cả cho hiện tại và tương lai.
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội nước ta có sự phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu tăng trưởng nguồn điện phải ở mức 10 - 12%/năm. Do đó, chúng ta cần phải tập trung đầu tư các dự án nguồn điện từ sớm, từ xa để bảo đảm cung ứng đủ điện cho nhu cầu phát triển trong tương lai, nhất là các nguồn điện nền, điện năng lượng tái tạo, điện sạch như điện gió ngoài khơi, điện khí để hướng tới mục tiêu Net Zezo vào năm 2050.
Đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 MW. Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện 8), tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi của Việt Nam là rất lớn, lên đến 600.000 MW. Mục tiêu đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 MW.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện 8 (Quyết định số 262/QĐ-TTg ngày 1/4/2024) mới chỉ phân bổ phát triển điện gió ngoài khơi theo vùng: (i) Bắc Bộ: 2.500 MW; (ii) Trung Trung Bộ: 500 MW; (iii) Nam Trung Bộ: 2.000 MW; (iv) Nam Bộ: 1.000 MW. Kế hoạch chưa xác định dự án điện gió ngoài khơi cụ thể nào và cũng chưa có dự án nào được triển khai.
Thời gian từ nay đến 2030 không còn nhiều, do đó việc sớm triển khai các dự án điện gió ngoài khơi là rất cần thiết để bảo đảm thực hiện được mục tiêu Quy hoạch điện 8 đề ra. Phó Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương khẩn trương phối hợp với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) để có báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ về các nội dung, thủ tục cần thiết để xem xét việc PVN thực hiện việc khảo sát điện gió ngoài khơi tại dự án cụ thể theo Thông báo kết luận 412/TB-VPCP của cuộc họp Thường thực Chính phủ ngày 12/9/2024, báo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 5/10/2024.
Đồng thời, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tổng hợp ý kiến về các vướng mắc, vấn đề cần sửa đổi, bổ sung Luật Điện lực và các quy định pháp luật khác có liên quan để hoàn thiện dự án Luật điện lực (sửa đổi) hoặc gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, đề xuất trong dự án một Luật sửa nhiều luật, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội 15, tháng 10/2024, củng cố hành lang pháp lý triển khai thực hiện các dự án về năng lượng, trong đó có dự án điện gió ngoài khơi.
Chờ quy định sẽ không đạt được mục tiêu
Nhìn nhận về thực trạng phát triển điện gió ngoài khơi, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA), cho biết hiện chúng ta chưa có các quy định về khảo sát khu vực biển để triển khai đầu tư các dự án loại này, trong khi Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chỉ mới được thông qua tháng 7/2024, còn phải đợi lập Kế hoạch thực hiện Quy hoạch. Các dự án điện gió ngoài khơi cụ thể cũng chưa được nêu trong Danh mục các dự án quan trọng ưu tiên đầu tư của ngành điện.
Bên cạnh đó, một số vướng mắc trong triển khai dự án điện gió ngoài khơi vẫn tồn tại dai dẳng, như chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.
Theo VEA, những vấn đề này cần giải quyết pháp lý quy định về điện gió ngoài khơi vào trong Luật Điện lực (sửa đổi); bổ sung vào Luật Tài nguyên, Môi trường biển và Hải đảo các quy định về không gian biển, về kỹ thuật cho điện gió, hướng dẫn đánh giá tác động môi trường, xã hội và quy định về cấp phép khảo sát cho tổ chức trong nước, nước ngoài với các nguồn vốn ngoài ngân sách.
“Đến thời điểm này, nếu cứ chờ các quy định về điện gió ngoài khơi thì chắc chắn mục tiêu 6.000 MW sẽ không đạt được vào năm 2030. Vì vậy, cần có những giải pháp mang tính đột phá, thử nghiệm để vừa làm vừa rút kinh nghiệm xây dựng cơ chế cho điện gió ngoài khơi”, VEA kiến nghị; đồng thời đề xuất một số giải pháp về cơ chế thí điểm.
Thứ nhất, cam kết về giá mua điện và lộ trình tăng giá đảm bảo cho doanh thu của nhà đầu tư, dù việc này có thể dẫn tới tăng giá điện bán lẻ chút ít. Cho phép đàm phán ký kết hợp đồng mua bán điện theo các cam kết này làm cơ sở cho việc huy động vốn vay của dự án.
Thứ hai, chọn sơ bộ một vài chủ đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước, hoặc liên doanh với nhà đầu tư quốc tế, dựa trên năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật, kinh nghiệm xây dựng, vận hành các dự án điện gió; sở hữu công nghệ điện gió ngoài khơi đã được xác nhận và công nhận rộng rãi. Sau đó cùng nhà đầu tư thử nghiệm cơ chế thí điểm cho dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên của Việt Nam. Song song với việc triển khai dự án thí điểm là tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách cho việc đấu thầu sau này.
Thứ ba, nhà đầu tư được chọn phải được giao khu vực biển để khảo sát và phát triển điện gió tại đó (với quy mô ban đầu không dưới 1.000 MW) và không gian để tiếp tục mở rộng quy mô công suất.
Theo kinh nghiệm quốc tế, quy mô dự án điện gió ngoài khơi phải từ 1.000 MW trở lên mới có thể có giá điện cạnh tranh. Mặt khác, cần quy định rõ cấp có thẩm quyền được giao khu vực biển, cho phép khảo sát và hướng dẫn đánh giá tác động môi trường, xã hội…
Thứ tư, mở rộng các quy định cho các công ty Việt Nam tham gia cùng đối tác quốc tế trong chuỗi giá trị điện gió để xuất khẩu ra nước ngoài. Trong đó, chú trọng ưu tiên 3 yếu tố: Chuỗi cung ứng; vận tải và hậu cần logistic; thuế ưu đãi.
Thứ năm, ban hành quy định các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Thứ sáu, nới các quy định về xuất khẩu điện gió ra nước ngoài nhằm tạo ra cạnh tranh giữa dự án bán điện trong nước và dự án bán điện ra nước ngoài.
Trong thời gian còn thiếu nhiều quy định pháp luật, cấp thẩm quyền nên xem xét ban hành ban hành cơ chế đặc thù, thí điểm để thực hiện ngay dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên, làm cơ sở cho triển khai các dự án tiếp theo.