Việt Nam bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đặt mục tiêu đạt 25-30% năng lượng tái tạo trong tổng cung, triển khai điện hạt nhân và giảm phụ thuộc nhập khẩu.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngành năng lượng Việt Nam duy trì tăng trưởng ổn định và cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế nghiêm trọng cần khắc phục.
Ảnh minh họa
Tiến độ thực hiện nhiều dự án điện chậm so với kế hoạch. Tiềm năng về năng lượng chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, tạo nguy cơ thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng hai con số.
Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng thiếu và chưa đồng bộ. Hệ thống điện phát triển chưa thông minh, lưới điện chưa kết nối hiệu quả với các dự án nguồn. Công nghệ trong một số lĩnh vực chậm được đổi mới.
Thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành. Chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường. Tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng vẫn tồn tại.
Bộ Chính trị đặt mục tiêu tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 150-170 triệu tấn dầu quy đổi đến năm 2030. Tổng công suất các nguồn điện đạt 183-236 GW hoặc có thể cao hơn tùy thuộc vào nhu cầu hệ thống. Tổng sản lượng điện khoảng 560-624 tỉ KWh.
Đặc biệt, tỉ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp sẽ đạt 25-30%. Đây là bước tiến quan trọng hướng tới chuyển đổi năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.
Hệ thống điện sẽ trở thành hệ thống thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối an toàn với lưới điện khu vực. Độ tin cậy cung cấp điện năng và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu xăng dầu trong nước. Mức dự trữ xăng dầu đạt khoảng 90 ngày nhập ròng. Việt Nam sẽ phát triển cơ sở đầy đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng theo nhu cầu.
Một trong những quyết định quan trọng nhất của Nghị quyết là khẩn trương triển khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Các dự án này sẽ được thực hiện với các đối tác phù hợp, bảo đảm lợi ích cao nhất của Việt Nam, đưa vào vận hành trong giai đoạn 2030-2035.
Việt Nam sẽ xây dựng Chương trình phát triển điện hạt nhân theo các quy mô linh hoạt và các nhà máy điện hạt nhân lắp ráp module nhỏ. Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng nguyên tử, từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân.
Quyết định này đánh dấu sự trở lại của điện hạt nhân sau khi Quốc hội quyết định dừng dự án Ninh Thuận 1 và 2 vào năm 2016 vì lý do tài chính và an toàn.
Nghị quyết nhấn mạnh phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng. Ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch.
Đối với năng lượng tái tạo, Việt Nam sẽ ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời, khuyến khích phát triển tại các vùng có lợi thế. Đặc biệt, sẽ xây dựng chính sách tháo gỡ khó khăn cho phát triển điện gió ngoài khơi.
Về dầu khí, đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác tại các khu vực tiềm năng, nước sâu, xa bờ. Phát triển công nghiệp khí, ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu, dự trữ và tiêu thụ LNG.
Đối với than, triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển ngành than trong bối cảnh mới. Đẩy mạnh khai thác than trong nước bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên.
Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng. Đây là thay đổi quan trọng trong tư duy phát triển ngành năng lượng.
Nhà nước sẽ có cơ chế dành nguồn tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh Chính phủ cho các dự án năng lượng quan trọng quốc gia. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu trong và ngoài nước.
Phát triển thị trường điện theo hướng tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả. Triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp, tăng cường quyền lựa chọn của khách hàng sử dụng điện.
Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư hạ tầng lưu trữ năng lượng như pin tích trữ, kho LNG, kho xăng, dầu cả trên đất liền và trên biển.
Nghị quyết yêu cầu tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển với tỉ lệ tối thiểu 2% GDP ngành năng lượng.
Thành lập các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, đổi mới sáng tạo và phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia trong lĩnh vực năng lượng. Thu hút 60-80 dự án chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Phát triển hệ thống lưới điện thông minh, hệ thống quản lý năng lượng thông minh trong công nghiệp, giao thông và xây dựng. Đào tạo tối thiểu 25.000-35.000 kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng.
Thể chế, chính sách cần được hoàn thiện nhanh chóng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư. Năng lực quản lý dự án và công nghệ cần được nâng cao. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương cần được tăng cường.
Đặc biệt, việc triển khai điện hạt nhân đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt kỹ thuật, pháp lý và xã hội. Công tác tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu và ủng hộ cần được thực hiện bài bản.
Nghị quyết 70-NQ/TW thể hiện quyết tâm cao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Thành công của Nghị quyết sẽ góp phần quan trọng vào mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.