Việt Nam đứng thứ 20 trong bảng xếp hạng chuỗi cung ứng pin toàn cầu năm 2024

09:35, 22/02/2025

Trong bối cảnh nhu cầu sử dụng pin toàn cầu tăng cao, Việt Nam có tiềm năng lớn để trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng pin toàn cầu nhờ nguồn tài nguyên niken, coban, đất hiếm…

Ảnh minh họa hệ thống pin lưu trữ năng lượng.

Chia sẻ tại Hội thảo “Nâng cao chuỗi cung ứng pin cho chuyển dịch năng lượng” do Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) thuộc UNOPS và Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp tổ chức ngày 20/2, ông Lê Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ cho biết thế giới đang chứng kiến sự dịch chuyển mạnh mẽ của ngành năng lượng toàn cầu, với pin lithium-ion đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của xe điện (EV) và hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS).

Tiềm năng lớn để tham gia chuỗi cung ứng pin toàn cầu

Theo báo cáo từ Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), nhu cầu pin toàn cầu dự kiến sẽ tăng mạnh, gấp 4,5 lần vào năm 2030 và hơn 7 lần vào năm 2035, do chính sách thúc đẩy năng lượng sạch.

Trong đó, nguồn công suất pin toàn cầu năm 2023 đạt khoảng 850 GWh, tăng hơn 40% so với năm 2022. Riêng nguồn nhu cầu về pin cho xe điện chiếm khoảng 750 GWh, tương đường gần 90% tổng nhu cầu về pin trong năm 2023.

Việc tăng trưởng nhanh, nhu cầu lớn của thị trường pin tạo ra một cơ hội lớn cho các quốc gia tham chuỗi cung ứng pin toàn cầu. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn với nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào như niken, coban và đất hiếm.

Việt Nam hiện đang đặt mục tiêu trong chuyển đổi năng lượng, theo đó, năng lượng tái tạo đạt khoảng 67,5-71,5% vào năm 2050 và phát triển ngành xe điện 100% vào năm 2050. Điều này tạo ra nhu cầu pin lớn, không chỉ cho tiêu dùng trong nước mà còn cho xuất khẩu, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Xem xét chính sách phù hợp

Tuy nhiên, hiện nay, chuỗi cung ứng pin của Việt Nam vẫn còn non trẻ, xếp thứ 20/30 trên bảng xếp hạng chuỗi cung ứng pin lithium-ion toàn cầu năm 2024. Điều này cho thấy, chuỗi cung ứng pin của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu với nhiều thách thức trước mắt.

“Năng lượng sản xuất các vật liệu quan trọng cho sản xuất pin của Việt Nam vẫn còn hạn chế, các chính sách hỗ trợ còn cần hoàn thiện và sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Sự phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng chuỗi cung ứng nội địa mạnh mẽ và linh hoạt hơn”, ông Lê Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ nhận định.

Theo PGS. TS. Đinh Công Hoàng, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Việt Nam cần triển khai các chiến lược phát triển bền vững để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng pin xe điện toàn cầu. Các chiến lược bao gồm đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu, đầu tư vào công nghệ sản xuất pin tiên tiến, xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy hợp tác quốc tế và bảo đảm tiêu chuẩn môi trường…

Một yếu tố rất quan trọng được ông Hoàng nhắc tới là kết cấu hạ tầng hỗ trợ, do đó, cần phát triển mạng lưới trạm sạc phủ khắp đô thị và tuyến giao thông chính, bảo đảm người dùng có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng; đồng thời, tuân thủ các quy định về môi trường trong quá trình khai thác, sản xuất và tái chế pin, phát triển các công nghệ và quy trình tái chế pin đã qua sử dụng, tận dụng tối đa nguyên liệu và giảm lượng rác thải...

Bà Nguyễn Ngọc Thủy, Điều phối viên quốc gia ETP/UNOPS, cho biết việc cải thiện vị thế này đòi hỏi sự tập trung vào nhiều yếu tố then chốt, bao gồm nguồn cung ứng nguyên liệu thô bền vững, đổi mới công nghệ và hiệu quả, hỗ trợ chính sách và quy định, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng và yếu tố địa chính trị.

Trong đó, việc phát triển ngành pin lưu trữ năng lượng và xe điện là rất quan trọng để Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Do vậy, TS. Nguyễn Ngọc Thủy đề xuất cần tiến hành phân tích kỹ lưỡng về các tác nhân, đối tác trong chuỗi cung ứng, đánh giá tác động môi trường, xã hội, và đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp.

Ông Lê Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp phát biểu tại Hội thảo.

Ông Lê Tuấn Anh cho rằng, việc tăng cường năng lực khai thác và chế biến sâu các khoáng sản, đặc biệt là các khoáng sản quý hiếm, là rất cần thiết để giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy một nghịch lý là mặc dù các doanh nghiệp khi đăng ký dự án khai thác khoáng sản đều cam kết gắn liền với chế biến, nhưng phần lớn lại chỉ tập trung vào giai đoạn khai thác. Đến khi phải đầu tư nhà máy chế biến, họ thường viện dẫn lý do hiệu quả kinh tế thấp, khó khăn về thị trường và đề xuất xin xuất khẩu quặng thô.

“Do vậy, cơ quan chức năng sẽ sớm tham mưu và đề xuất các biện pháp để giải quyết vấn đề này”, ông Tuấn Anh nhấn mạnh.