Bài 1: Làm sao xử lý số lượng lớn rác thải nhựa tồn tại ngoài môi trường?
Với khối lượng lớn chất thải nhựa sản sinh ra mỗi năm đã tạo sức ép rất lớn cho môi trường. Do đó, vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết là làm sao để xử lý hiệu quả những chất thải nhựa này.
Những con số “giật mình” về chất thải nhựa
Số liệu từ Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) cho biết, trung bình hàng năm toàn cầu đón nhận khoảng 20 triệu tấn chất thải nhựa. Con số này được dự đoán tiếp tục tăng mạnh vào năm 2040. Đáng chú ý, khoảng 80% nhựa trong đại dương bắt nguồn từ đất liền và đa phần không thể tái chế vì nhựa trong nước bị phân hủy bởi muối, ánh sáng thu hút độc tố và vi sinh vật, đồng thời việc làm sạch và phân loại cũng rất tốn kém. Nếu không có sự can thiệp kịp thời thì khoảng 23-37 triệu tấn chất thải nhựa mỗi năm có thể xâm nhập vào đại dương vào năm 2040.
Khối phế liệu chất thải nhựa để tái chế.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hàng năm có khoảng 2,8 đến 3,1 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra trên đất liền. Trong số đó, có chiếm quá nửa chưa được xử lý tốt, chỉ chôn lấp tại các bãi rác tự phát, đốt lộ thiên, hoặc vứt xuống ao, hồ, sông, suối.
Vấn nạn ô nhiễm rác thải nhựa xuất phát từ các sản phẩm dùng một lần như chai lọ, nắp chai, điếu thuốc lá, túi mua sắm, cốc và ống hút. Hậu quả sẽ vô cùng tồi tệ với hệ sinh thái trên đất liền, nước ngọt và biển. Đây là một nguyên nhân chính gây mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái, đồng thời góp phần vào biến đổi khí hậu, đe dọa sức khỏe con người, ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm và nước. Những hệ lụy trên sẽ gây gánh nặng cho các hoạt động kinh tế trong việc xử lý rác thải.
Mặc dù ô nhiễm rác thải nhựa rất nghiêm trọng nhưng tỷ lệ thu gom tại các nước là khác nhau và hiệu suất thu gom đạt 100% chỉ diễn ra ở các nước thu nhập cao (UNEP).
Tại Việt Nam, ước tính tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) phát thải hơn 60.000 tấn/ngày (khu vực đô thị phát thải hơn 30.000 tấn/ngày và khu vực nông thôn phát thải hơn 20.000 tấn/ngày), tỷ lệ thu gom CTRSH đô thị trung bình cả nước đạt khoảng 92%, 8% khối lượng CTRSH không được thu gom và bị thải bỏ ra môi trường xung quanh.
Tỷ lệ thu gom CTRSH nông thôn trung bình cả nước chỉ đạt khoảng 66% một con số khá thấp và có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương. Vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ thu gom cao nhất (87,5%) và vùng Tây Nguyên có tỷ lệ thu gom thấp nhất (29,1%).
Tại khu vực các vùng sâu, vùng xa, xã đảo, việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn còn gặp khó khăn như: Việc thu gom và vận chuyển vào đất liền, khu vực tập trung để xử lý của cấp huyện không đảm bảo hiệu quả về kinh tế và môi trường (cự ly vận chuyển xa, chi phí cao, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường khi vận chuyển trên biển); diện tích đất đảo không lớn nên việc lựa chọn vị trí xây dựng các bãi chôn lấp chất thải rắn khó khăn (quy mô, diện tích, khoảng cách an toàn môi trường ...); khối lượng chất thải rắn phát sinh không đủ lớn để đầu tư các lò đốt đảm bảo công suất theo quy định.
Việc phân loại chất thải rắn được thực hiện bởi hai nguồn: Tại các nhà máy xử lý chất thải, cơ sở xử lý hoặc điểm tập kết CTRSH; Lực lượng phi chính thức (ve chai, người thu nhặt rác,…) hoặc nhân viên thu gom, vận chuyển rác.
Ước tính khối lượng chất thải nhựa được phân loại cho tái chế tại cơ sở xử lý khoảng 0,8 triệu tấn và nguồn thu gom không chính thức khoảng 0,1 triệu tấn. Tổng khối lượng chất thải nhựa được phân loại cho tái chế là 0,9 triệu tấn, tương ứng với khoảng 30% khối lượng phát sinh.
Các biện pháp xử lý số lượng lớn chất thải nhựa
Hiện nay trên thế giới đang có bốn phương án xử lý chất thải chính: Tái chế cơ học, tái chế hóa học, hỏa táng (đốt rác) và bãi chôn lấp.
Phương án bãi chôn lấp là phổ biến nhất chủ yếu vì chi phí xử lý thấp và không đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật cao. Tuy nhiên phương án này cũng gây ra tiềm năng rủi ro cao như việc chất thải nhựa còn xót lại xâm nhập vào môi trường gây tắc nghẽn trong lòng đất, ô nhiễm đất, nước ngầm, tác động sức khỏe con người. Về lâu dài sẽ gây mất nguồn tài nguyên vì không được phục hồi.
Phương án đốt thường được sử dụng cho chất thải nhựa không thể tái chế hoặc khó tái chế. Bên cạnh tiềm năng tạo ra năng lượng đáng kể và có thể được sử dụng để sản xuất nhiệt hoặc điện cho sử dụng công nghiệp, thì việc đốt chất thải nhựa là tác nhân chính tạo ra khí độc như: Acetaldehyde, acetone, benzaldehyde, benzole, formaldehyde, phosgene, dioxin… Do đó, nhiều quốc gia đã tăng thuế hoặc ra lệnh cấm để tăng cường việc thu gom tái chế nhựa.
Tái chế đang là phương án được quan tâm và ưu ái nhất để phục hồi tài nguyên. Trong đó tái chế cơ học là quá trình đơn giản nhất. Bao gồm phân loại, làm sạch, tạo hạt, xé nhỏ, sấy khô, nóng chảy, đùn và tạo viên (hạt nhựa). Tái chế nhựa hỗn hợp một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí, cùng với mức độ ô nhiễm cao, có lẽ là những thách thức lớn nhất mà ngành tái chế cơ học đang đối mặt.
Một giải pháp thay thế cho tái chế cơ học là tái chế hóa học. Phương án này tập trung vào việc cải thiện phương án tái chế cơ học đối với các chất thải nhựa hỗn hợp, các polymer truyền thống không thể tái chế, do đó tránh phải phân loại. Tuy nhiên phương án này chỉ được áp dụng ở các nước có nền kinh tế tiên tiến, do chi phí vốn cao và yêu cầu chuyên môn đặc biệt.
Tại Việt Nam, ba phương án xử lý chất thải nhựa chủ yếu là chôn lấp, đốt rác và tái chế. Trong đó chôn lấp là phương án xử lý chất thải được áp dụng phổ biến nhất chiếm khoảng 70%. Tuy nhiên chỉ có 15% trong số đó là được chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc bãi tập kết chất thải không được thiết kế đảm bảo các yêu cầu về môi trường. Đối với các bãi chôn lấp hợp vệ sinh tại các thành phố lớn hầu hết đều gặp phải tình trạng quá tải.
Đốt rác được thực hiện theo hai nhóm đó là đốt rác tự phát thường diễn ra tại các bãi rác ở khu vực nông thôn hoặc tại các hộ gia đình. Hoạt động xử lý này không theo quy trình xử lý và đốt rác có kiểm soát tại các nhà máy, khu liên hợp xử lý chất thải với quy mô từ vài chục tấn đến hàng nghìn tấn/ngày. Năng lượng nhiệt tại các nhà máy đốt rác có thể thu hồi để phục vụ phát điện (ví dụ như nhà máy điện rác tại TP. Hà Nội và Cần Thơ).
Hoạt động tái chế nhựa từ CTRSH tại Việt Nam chủ yếu mang tính tự phát nên việc ước lượng tỷ lệ chất thải nhựa được tái chế còn gặp nhiều khó khăn. Với con số đưa ra ở trên thì khối lượng chất thải nhựa thực tế được đưa vào tái chế chiếm 90% và 10% còn lại sẽ bị thất thoát trong quá trình tái chế.
(Còn tiếp)
Quang Minh
PV (Theo Tạp chí Tin học và Đời sống)