Chính sách truyền thông về KH&CN: Bài học từ mô hình điển hình
Từ thực tiễn triển khai các chương trình truyền thông về khoa học và công nghệ (KH&CN) trong thời gian qua, có thể thấy rõ vai trò đặc biệt của chính sách truyền thông trong việc đưa tri thức đến gần hơn với đời sống. Những mô hình điển hình đã để lại nhiều bài học quý cho việc hoàn thiện cơ chế và phương thức truyền thông KH&CN hiện nay.
- Luật Báo chí (sửa đổi): Bắt kịp sự vận động của truyền thông hiện đại, tạo điều kiện để báo chí phát triển phù hợp xu thế số hóa
- Truyền thông quốc tế đồng loạt đưa tin về lễ ký Công ước Hà Nội, đánh giá cao vai trò của Việt Nam
- Nghiêm cấm sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo dựng, lan truyền thông tin sai sự thật, lừa đảo
Khi truyền thông trở thành động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Trong kỷ nguyên tri thức, truyền thông KH&CN không chỉ là công cụ phổ biến thông tin, mà còn là lực đẩy giúp khoa học kết nối với thực tiễn. Mỗi chiến dịch truyền thông thành công là một minh chứng rõ nét cho sức mạnh của thông tin trong việc thúc đẩy sáng tạo, nuôi dưỡng tinh thần đổi mới và lan tỏa tri thức khoa học ra cộng đồng.
Những năm gần đây, nhiều mô hình truyền thông về KH&CN đã chứng minh hiệu quả thực tế. Các sự kiện như Ngày KH&CN Việt Nam (18-5), Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest) hay chuỗi Chương trình tôn vinh các nhà khoa học nữ đã thu hút sự quan tâm của xã hội. Không chỉ dừng ở hoạt động tuyên truyền, các chương trình này đã tạo diễn đàn kết nối giữa giới nghiên cứu, doanh nghiệp và nhà quản lý, từ đó hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ngày càng rộng mở.

Trong kỷ nguyên tri thức, truyền thông KH&CN không chỉ là công cụ phổ biến thông tin, mà còn là lực đẩy giúp khoa học kết nối với thực tiễn. Ảnh minh họa.
Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương cũng đã có nhiều sáng tạo trong cách thức truyền tải. Nhiều chuyên mục, phóng sự, tọa đàm về đổi mới công nghệ, sản phẩm khoa học ứng dụng, hay chuyển giao tri thức được thực hiện đều đặn, với ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu. Qua đó, những khái niệm tưởng chừng khô khan như “AI”, “chuyển đổi số”, “kinh tế tri thức” đã trở nên quen thuộc hơn trong đời sống xã hội.
Sự thành công của các mô hình này cho thấy, khi được định hướng đúng và hỗ trợ bằng chính sách phù hợp, truyền thông KH&CN có thể trở thành một trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Không chỉ lan tỏa tri thức, mà còn kích thích nhu cầu học hỏi, sáng tạo và áp dụng khoa học vào sản xuất, đời sống.
Bài học từ mô hình điển hình hướng tới cơ chế bền vững
Từ thực tiễn các mô hình truyền thông KH&CN đã vận hành, bài học đầu tiên là cơ chế phối hợp. Những mô hình hiệu quả đều có “trục liên kết” rõ ràng giữa cơ quan quản lý, cơ quan báo chí và cộng đồng chuyên gia/doanh nghiệp. Khi mục tiêu, thông điệp và quy trình phối hợp được xác lập ngay từ đầu, truyền thông không còn là hoạt động đứng ngoài chính sách, mà trở thành một cấu phần của vòng đời chính sách: cùng tham vấn, cùng triển khai, cùng đánh giá và điều chỉnh.
Bài học thứ hai là tính chuyên nghiệp và tính hệ thống. Truyền thông KH&CN không thể trông chờ vào hứng khởi ngắn hạn, mà cần một đội ngũ ổn định, hiểu phương pháp luận khoa học, biết diễn giải học thuật bằng ngôn ngữ đại chúng mà vẫn chuẩn xác. Cùng với đó là quy trình biên tập dựa trên dữ liệu, tiêu chí kiểm chứng nguồn và chuẩn trình bày giúp công chúng tiếp cận dễ dàng. Khi tính chuyên nghiệp trở thành chuẩn mực, thông điệp chính sách mới đủ sức cạnh tranh trong môi trường truyền thông đa nền tảng.
Bài học thứ ba là đầu tư chiều sâu cho công nghệ và dữ liệu. Các mô hình điển hình đều cho thấy, muốn bền vững, phải có hạ tầng số cho truyền thông (kho dữ liệu mở, thư viện số kết quả nghiên cứu, dashboard đo tương tác), kèm công cụ phân tích để hiểu độc giả và cộng đồng chuyên môn. Dữ liệu không chỉ giúp tối ưu kênh phát, mà còn là căn cứ phản biện - giải trình, tạo vòng lặp cải tiến liên tục cho cả truyền thông và chính sách.
Bài học thứ tư là cơ chế trách nhiệm giải trình. Truyền thông KH&CN không dừng ở việc “đưa tin về thành tựu”, mà phải song hành công bố tiến độ, kết quả, chỉ số tác động; tiếp nhận - phản hồi góp ý công chúng theo quy trình minh bạch. Khi trách nhiệm giải trình được thể chế hóa, truyền thông trở thành động lực nâng chất lượng quản trị, thay vì chỉ “tạo hình ảnh”.
Song song với nỗ lực của cơ quan quản lý, khu vực tư nhân và hệ sinh thái khởi nghiệp mang lại bài học về xã hội hóa truyền thông KH&CN. Những sự kiện như Techfest, Ngày hội đổi mới sáng tạo hay chương trình hợp tác nội dung giữa doanh nghiệp công nghệ - viện trường - báo chí cho thấy, khi thông tin được chia sẻ theo cơ chế mở, kết quả nghiên cứu không còn nằm trong “ngăn kéo”, mà trở thành mạng lưới ứng dụng thực tiễn. Đây là mô hình đồng kiến tạo truyền thông: nhà khoa học cung cấp tri thức chuẩn xác; báo chí chuyển hóa thành nội dung dễ hiểu; doanh nghiệp chứng minh hiệu quả qua sản phẩm - thị trường. Chu trình đó tạo sức hút tự nhiên, giảm lệ thuộc vào ngân sách truyền thông ngắn hạn.
Ở tầm chính sách, tinh thần Chỉ thị 09/CT-TTg yêu cầu đẩy mạnh truyền thông KH&CN như một trụ cột của đổi mới sáng tạo quốc gia. Diễn giải vào cơ chế bền vững, có ba điểm mấu chốt: Coi truyền thông là cấu phần bắt buộc trong chương trình/đề án KH&CN, có ngân sách, tiêu chí và chỉ số đánh giá riêng; Thiết lập nền tảng dữ liệu - công nghệ phục vụ truyền thông dài hạn, không “làm xong là xếp lại”; Vận hành cơ chế đối tác công - tư trong truyền thông KH&CN để mở rộng nguồn lực và độ lan tỏa. Khi ba điểm này được thể chế hóa, truyền thông KH&CN thoát khỏi tính phong trào, trở thành cơ chế bền vững gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế tri thức.
Hướng đến hệ sinh thái truyền thông KH&CN bền vững
Truyền thông KH&CN là dòng chảy của tri thức, chính sách truyền thông và định hướng cho dòng chảy ấy đi đúng hướng. Muốn phát triển bền vững, cần xây dựng một hệ sinh thái truyền thông KH&CN có sự tham gia của Nhà nước, doanh nghiệp, viện trường và cộng đồng. Khi mọi chủ thể cùng chung tay lan tỏa giá trị khoa học, tri thức mới thực sự trở thành động lực cho phát triển.

Ảnh minh họa.
Kinh nghiệm từ các mô hình điển hình cho thấy, khi truyền thông được đầu tư bài bản, gắn với mục tiêu phát triển cụ thể, hiệu quả xã hội đạt được lớn hơn nhiều lần so với chi phí bỏ ra. Không chỉ nâng cao nhận thức, truyền thông còn giúp thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tạo động lực cho nhà khoa học và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Từ những bài học ấy, chính sách truyền thông KH&CN của Việt Nam trong giai đoạn tới cần được xây dựng trên ba trụ cột: minh bạch - tương tác - bền vững. Minh bạch trong thông tin, tương tác trong phương thức truyền đạt và bền vững trong mục tiêu lâu dài. Khi đó, truyền thông KH&CN không chỉ là công cụ lan tỏa tri thức, mà sẽ trở thành động lực cho một nền kinh tế sáng tạo, tự cường và hội nhập./.
