Chuyển đổi số cho phát triển nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long

15:08, 18/09/2025

Đây là chủ đề của Hội thảo “Kết nối mạng lưới khởi nghiệp, hỗ trợ thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” do Đại học Cần Thơ phối hợp với Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao (Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh) tổ chức ngày 16/9/2025 tại TP Cần Thơ.

Chuyển đổi số - nền tảng để ngành nông nghiệp ĐBSCL “cất cánh”

PGS.TS Châu Minh Khôi, Phó Hiệu trưởng Trường Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ cho biết, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, nguồn tài nguyên suy giảm và yêu cầu phát triển bền vững đặt ra nhiều thách thức cho ngành nông nghiệp, chuyển đổi số (CĐS) đã trở thành nhiệm vụ chiến lược, giữ vai trò then chốt trong nâng cao năng suất, hiệu quả quản lý và sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và đổi mới sáng tạo không chỉ mở ra cơ hội gia tăng giá trị nông sản, xây dựng chuỗi sản xuất - tiêu thụ bền vững mà còn góp phần hình thành hệ sinh thái nông nghiệp số gắn kết tri thức - công nghệ - thị trường.

Đảng và Nhà nước luôn xem hoạt động khởi nghiệp trong các trường đại học là một phần chiến lược quốc gia nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tri thức, và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp bền vững.

Điều đó thể hiện ở chỗ Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các trường đại học, đặc biệt là Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”.

PGS.TS Châu Minh Khôi, Phó Hiệu trưởng Trường Nông nghiệp (Đại học Cần Thơ) phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: Đại học Cần Thơ)

Trường Nông nghiệp thuộc Đại học Cần Thơ là một trong các trường đại học chủ lực ĐBSCL có thế mạnh về nông nghiệp, thủy sản, môi trường, sinh học, công nghệ sau thu hoạch… Do đó, việc thúc đẩy CĐS phục vụ các nội dung đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Trường đóng vai trò lớn cả về mặt kiến thức, nghiên cứu, kết nối thực tiễn và phát triển địa phương.

Bà Bùi Thị Thủy Tiên, Phó Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam nhấn mạnh, ứng dụng công nghệ số vào nông nghiệp phải được nhìn nhận như một quá trình cải cách tổng thể, kết hợp đồng bộ giữa đổi mới mô hình sản xuất, cơ cấu lại chuỗi giá trị và nâng cao năng lực quản trị của DN, hợp tác xã và nông hộ.

CĐS giúp nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua việc áp dụng Internet vạn vật, thiết bị bay không người lái, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo,… đồng thời cho phép phân tích xu hướng thị trường, dự báo nhu cầu tiêu dùng, hỗ trợ quyết định sản xuất phù hợp. Điều này không chỉ giúp giảm rủi ro đầu ra mà còn nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Bên cạnh đó, các công nghệ như blockchain, nền tảng số hóa chuỗi cung ứng… cũng mang lại sự minh bạch, bảo đảm truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Đây là yếu tố quan trọng để nông sản Việt Nam nói chung, khu vực ĐBSCL nói riêng đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó tính.

Tuy vậy, quá trình CĐS trong nông nghiệp vẫn còn đối diện nhiều rào cản. Thứ nhất, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, nơi kết nối Internet còn hạn chế.

Thứ hai, nguồn nhân lực số trong lĩnh vực nông nghiệp còn thiếu và yếu. Phần lớn nông dân ở ĐBSCL chưa được trang bị kỹ năng sử dụng công nghệ, dẫn đến tâm lý e ngại khi tiếp cận giải pháp mới.

Thứ ba, chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ cao, trong khi đa số hộ sản xuất ở ĐBSCL đều quy mô nhỏ, vốn ít. Điều này đòi hỏi phải có chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi và cơ chế hợp tác công - tư để giảm gánh nặng cho người nông dân.

Đồng bộ nhiều giải pháp

Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức và cơ hội mới từ làn sóng CĐS, việc ứng dụng thương mại điện tử đã trở thành một hướng đi tất yếu. Đây là chia sẻ của Nguyễn Trần Bích Ngọc, Giám đốc Công ty cổ phần E-com Easy.

Theo bà Nguyễn Trần Bích Ngọc, nông sản Việt Nam có tiềm năng rất lớn không chỉ ở thị trường nội địa mà còn trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất chính là cách thức tiếp cận khách hàng, xây dựng thương hiệu và đảm bảo minh bạch nguồn gốc.

Bà Nguyễn Trần Bích Ngọc nhấn mạnh rằng, trước đây nông dân và hợp tác xã thường phụ thuộc nhiều vào thương lái, dẫn đến tình trạng bị ép giá và khó chủ động trong tiêu thụ sản phẩm. Khi áp dụng thương mại điện tử, người sản xuất có thể trực tiếp kết nối với người tiêu dùng hoặc DN phân phối, từ đó nâng cao giá trị nông sản. Thực tế, nhiều mô hình đã chứng minh rằng nếu có chiến lược bán hàng trực tuyến bài bản, sản phẩm nông nghiệp hoàn toàn có thể vươn tới những thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu…

Để thương mại điện tử thực sự phát huy vai trò trong nông nghiệp, bà Nguyễn Trần Bích Ngọc cho rằng, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa DN công nghệ, nhà sản xuất, cơ quan quản lý và các tổ chức hỗ trợ. Chính quyền địa phương có thể hỗ trợ đào tạo kỹ năng số cho nông dân, tạo điều kiện kết nối hạ tầng logistics; trong khi đó DN công nghệ cung cấp giải pháp kỹ thuật và nền tảng vận hành. Khi có sự liên kết chặt chẽ, thương mại điện tử sẽ không chỉ là kênh bán hàng, mà còn trở thành động lực thúc đẩy quá trình CĐS toàn diện của ngành nông nghiệp.

TS. Trương Minh Thái, Trưởng khoa Công nghệ Phần mềm (Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Cần Thơ) cho rằng, nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Tại Đại học Cần Thơ, nhiều nghiên cứu và giải pháp công nghệ đã được triển khai, tập trung vào việc xây dựng các mô hình nông nghiệp thông minh, ứng dụng IoT, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong quản lý sản xuất, dự báo sâu bệnh, tối ưu hóa sử dụng phân bón, nước tưới và năng lượng. Sự kết hợp giữa công nghệ và nông nghiệp không chỉ góp phần giải quyết bài toán nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí, mà còn hướng đến mục tiêu phát triển xanh, thân thiện môi trường.

Đại học Cần Thơ đã và đang trở thành trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ cho vùng ĐBSCL, hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và DN áp dụng các giải pháp số hóa, từ đó nâng cao giá trị nông sản và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Chia sẻ về những những kinh nghiệm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và CĐS trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thanh Thúy - Phó Giám đốc Trung tâm Ươm tạo DN Nông nghiệp Công nghệ cao cho rằng, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp muốn phát triển bền vững cần có sự đồng hành của Nhà nước, DN và các tổ chức trung gian. Trung tâm hiện đóng vai trò là cầu nối quan trọng, triển khai nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực dành cho các startup trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Thứ nhất là chính sách hỗ trợ về hạ tầng và không gian làm việc. Các DN khởi nghiệp được tiếp cận phòng thí nghiệm, nhà kính, khu trình diễn công nghệ, cũng như văn phòng làm việc với chi phí ưu đãi. Điều này giúp các nhóm khởi nghiệp tiết kiệm chi phí ban đầu và tập trung nhiều hơn cho nghiên cứu, thử nghiệm và hoàn thiện sản phẩm.

Thứ hai, hỗ trợ chuyên gia và cố vấn khởi nghiệp: Trung tâm tổ chức mạng lưới chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ sinh học, kỹ thuật canh tác, quản trị kinh doanh và thương mại hóa sản phẩm. Các startup được tư vấn trực tiếp từ ý tưởng, mô hình kinh doanh, đến chiến lược tiếp cận thị trường.

Thứ ba, chính sách về kết nối tài chính. Ngoài việc hướng dẫn tiếp cận các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, Trung tâm còn tổ chức các hoạt động kết nối đầu tư, ngày hội gọi vốn, qua đó tạo cơ hội cho các DN tiềm năng tiếp xúc với nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Toàn cảnh Hội thảo. (Ảnh Đại học Cần Thơ).

Thứ tư, hỗ trợ đào tạo và nâng cao năng lực. Trung tâm thường xuyên tổ chức khóa huấn luyện kỹ năng quản trị DN, quản lý tài chính, marketing số và thương mại điện tử cho các startup. Đây là nền tảng quan trọng để các DN khởi nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh./.