Đẩy mạnh xây dựng nguồn lực phát triển cơ sở dữ liệu ngành VHTTDL

07:25, 02/10/2024

Cho đến nay, các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL đã bước đầu hình thành số hóa, chuẩn hóa dữ liệu hiện có của một số lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nhằm từng bước hình thành cơ sở dữ liệu dùng chung của ngành.

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Nam Nguyễn/VGP

Hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia, chiều 1/10/2024 tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Hội thảo: "Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình".

Hội thảo là diễn đàn để các chuyên gia, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp trao đổi, thảo luận về các vấn đề liên quan đến phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình.

Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, ngành VHTTDL đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc xây dựng, phát triển và chia sẻ dữ liệu số của ngành.

Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Bộ VHTTDL đã tập trung triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số và coi đây là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn mà Chính phủ đã chỉ đạo. Ở góc độ quản lý, Bộ VHTTDL đã tham mưu, trình Chính phủ cho phép hình thành các hạ tầng cứng trong vấn đề công nghệ thông tin, ban hành các chiến lược, kế hoạch số hóa một số lĩnh vực như thư viện, du lịch, di sản…

Thực hiện theo các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông về dữ liệu, Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan nhà nước, tính đến nay, trên hệ thống ngành VHTTDL đã tạo lập được 6.290 tài khoản cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc các đơn vị để kê khai hồ sơ và đã hoàn thành 100% việc kết nối và đồng bộ lên hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ công chức viên chức.

Năm 2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các trường thông tin chưa đúng, còn thiếu về cán bộ, công chức, viên chức đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức đảm bảo dữ liệu Đúng – Đủ – Sạch – Sống.

Tập trung triển khai các nền tảng số dùng chung cho ngành VHTTDL

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương cho biết, cho tới nay, các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL đã bước đầu hình thành số hóa, chuẩn hóa dữ liệu hiện có của một số lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nhằm từng bước hình thành cơ sở dữ liệu dùng chung của ngành như số hóa dữ liệu và cập nhật thông tin di sản văn hóa tại các phần mềm Hệ thống thông tin quản lý được triển khai trên phạm vi toàn quốc; Số hóa dữ liệu lễ hội tại Việt Nam; Cơ sở dữ liệu về lĩnh vực du lịch và các hệ thống thông tin cốt lõi tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới xây dựng, quản lý Chính phủ số đối với lĩnh vực du lịch; Số hóa, chuyển đổi, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính của Bộ.

Sau khi hoàn thành việc khảo sát cơ sở dữ liệu của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, Bộ VHTTDL đã xây dựng danh mục 17 cơ sở dữ liệu dùng chung theo quy định chung về xây dựng cơ sở dữ liệu và 38 cơ sở dữ liệu chuyên ngành của Bộ VHTTDL. Trong đó, 23 cơ sở dữ liệu mở cần được cập nhật thường xuyên, định kỳ 06 tháng/lần, bảo đảm cơ sở dữ liệu chính xác, đầy đủ.

Thời gian qua, việc triển khai công tác chuyển đổi số tại Bộ VHTTDL đã đạt được các kết quả tích cực trước hết là nhận thức và hành động về triển khai chuyển đổi số của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ có nhiều chuyển biến; Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách được quan tâm chỉ đạo đáp ứng kịp thời; Hạ tầng số được tăng cường đầu tư, tập trung triển khai các nền tảng số dùng chung cho ngành VHTTDL như nền tảng bảo tàng số, nền tảng số về quản trị và kinh doanh du lịch; Dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp được triển khai ngày càng hiệu quả, tăng mức độ hài lòng đối với các dịch vụ công ích; Công tác đảm bảo an toàn, an ninh luôn được chú trọng; Nguồn lực dành cho chuyển đổi số, dữ liệu số được quan tâm, tăng cường, đặc biệt là kinh phí cho chuyển đổi số phục vụ công tác chuyên môn như triển khai các hệ thống ứng dụng, tạo lập cơ sở dữ liệu, duy trì vận hành, tuyên truyền và đào tạo đã tăng hằng năm.

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Hoàng Đạo Cương, nhìn tổng thể và so sánh với các mục tiêu, yêu cầu đề ra, kết quả chúng ta đạt được chưa đồng đều. Các cơ sở dữ liệu còn thiếu đồng bộ và chưa được khai thác một cách tối ưu. Vấn đề bảo mật thông tin và quyền riêng tư cũng đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chúng ta phải có cách tiếp cận toàn diện, khoa học và thận trọng.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 323/QĐ –BVHTTDL về Kế hoạch triển khai Đề án 06 tại các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 trong thời gian tới đây và để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong ngành văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình, Bộ VHTTDL sẽ tập trung xây dựng, phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu của ngành VHTTDL, tạo sự kết nối với các dữ liệu khác, đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi số, công tác quản trị, điều hành và hoạch định chính sách trong thời gian tới…

Hội thảo: "Định hướng phát triển cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa, Thể thao, Du lịch và Gia đình". Ảnh: Nam Nguyễn/VGP

Phó Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia (Bộ VHTTDL) Nguyễn Lê Phúc cho biết, đối với ngành du lịch, dữ liệu là một trong những nền tảng quan trọng để thực hiện chuyển đổi số thành công, phát triển du lịch thông minh. Xây dựng kho dữ liệu số, đặc biệt phát triển các cơ sở dữ liệu là một nhiệm vụ cần thiết nhằm giúp cho công tác quản lý ngành thực chất, hiệu quả, hỗ trợ công tác xúc tiến quảng bá, thúc đẩy sự phát triển chung của ngành du lịch. Đồng thời hệ thống CSDL ngành du lịch sẽ góp phần hỗ trợ cho công tác quản lý của các ngành liên quan và cũng là tạo nguồn dữ liệu cho công tác nghiên cứu chuyên ngành du lịch.

Hơn nữa, trước thực trạng bùng nổ về thông tin qua vô số các kênh thông tin khác nhau, người dùng sẽ có thể gặp khó khăn khi tiếp nhận thông tin như chất lượng dữ liệu kém, sự sai lệch về cùng nội dung thông tin giữa các kênh thông tin khác nhau... Các cơ quan quản lý, nghiên cứu chuyên môn luôn phải làm việc với rất nhiều dữ liệu qua các báo cáo, hồ sơ và các hệ thống. Các nhà quản lý, nghiên cứu luôn mong muốn có CDSL chính thống, tin cậy để có thể đưa ra các quyết định, khuyến nghị chính xác.

Ông Nguyễn Lê Phúc cho biết, dữ liệu ngành du lịch hiện đang được lưu giữ tập trung trong hệ thống CSDL của Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam. Hiện có một số dữ liệu liên quan đến du lịch đã được chia sẻ rộng rãi qua nền tảng website của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau, nhưng những dữ liệu vẫn còn phân tán.

Dữ liệu thống kê du lịch chưa đủ và chưa có một nền tảng đáp ứng đầy đủ nhu cầu để phục vụ thu thập, phát triển và công bố dữ liệu thống kê chuyên nghiệp. Đồng thời, thông tin, dữ liệu thu thập còn hạn chế về tính đầy đủ, chính xác, nhanh chóng, thường xuyên.

Đối với các CSDL khác hiện đang có hạn chế là số liệu được thu thập và nhập từ nhiều nguồn khác nhau, hoặc do chính các cơ sở kinh doanh tham gia trực tiếp nhập dữ liệu, do đó còn thiếu sự thống nhất, chuẩn hóa về thông tin, dữ liệu không được cập nhật thường xuyên.

Vì vậy, để phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu ngành du lịch đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, theo ông Nguyễn Lê Phúc tối ưu nhất là có hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung do Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam quản lý, vận hành để các Sở quản lý du lịch địa phương và doanh nghiệp du lịch cùng tham gia vào hệ thống.

Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam đã triển khai hỗ trợ các bên liên quan như địa phương, điểm đến, doanh nghiệp du lịch, khách du lịch tham gia vào hệ sinh thái du lịch thông minh, khai thác các giá trị tăng thêm từ môi trường kinh tế số. Trong đó, tập trung vào một số nhiệm vụ chính như: Xây dựng Cơ sở dữ liệu Du lịch Việt Nam; Xây dựng kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan quản lý ở trung ương, địa phương và doanh nghiệp; Ứng dụng công nghệ số hỗ trợ khách du lịch, phát triển điểm đến du lịch thông minh: xây dựng bản đồ số du lịch; phát triển ứng dụng du lịch quốc gia "Du lịch Việt Nam – Vietnam Travel" - công cụ hỗ trợ mạnh mẽ cho du khách từ tìm kiếm thông tin, đặt dịch vụ (vé máy bay, phòng khách sạn, vé tham quan…), thanh toán điện tử, tối ưu trải nghiệm du lịch đến hỗ trợ du khách đánh giá/phản hồi chất lượng dịch vụ để được bảo vệ quyền lợi…

TS Phạm Thị Khánh Ngân, Cục Di sản văn hóa cho rằng, để xây dựng, vận hành hệ thống thông tin cần các yếu tố cơ bản như: Chính sách, kinh phí, nhân lực, cơ sở dữ liệu... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn trong quá trình triển khai như: Về định hướng chính sách; về kinh phí, hạ tầng, thực tiễn đòi hỏi đầu tư kinh phí cho việc xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trung tâm dữ liệu để xây dựng và triển khai các dự án liên kết dữ liệu, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý, khai thác và thúc đẩy việc giới thiệu di sản văn hóa đến với mọi đối tượng quan tâm; về nguồn nhân lực, tuy đã được chú trọng nhưng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển; Về cơ sở dữ liệu: Phần mềm dùng chung có hạn chế chưa thể thỏa mãn được tất cả yêu cầu của thực tế.

Theo TS Phạm Thị Khánh Ngân, cần thống nhất nhận thức, hoàn thiện và triển khai các văn bản quy phạm pháp luật, quy định từ Trung ương đến địa phương trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tổng quan và xây dựng bộ tiêu chí dữ liệu, bộ công cụ giám sát trong hoạt động quản lý, liên kết hệ thống bản đồ số trong việc số hóa dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên phạm vi toàn quốc.

Xây dựng nền tảng tích hợp dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa Việt Nam để quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Hoàn thiện các quy chế phối hợp, cập nhật, chia sẻ dữ liệu trong hệ thống các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên phạm vi toàn quốc.

Xây dựng chính sách khuyến khích đào tạo và đào tạo lại ở trong nước và nước ngoài cho cán bộ có trình độ ngoại ngữ và tin học đáp ứng yêu cầu phân tích, đánh giá, số hóa và cập nhật dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa.

Tăng nguồn kinh phí thường xuyên cho việc nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc ứng dụng công nghệ và số hóa để triển khai đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.