Giáo dục - nền tảng quyết định năng lực số quốc gia

11:00, 18/10/2025

Việt Nam đang đi rất nhanh trong hành trình chuyển đổi số, nhưng tốc độ chưa đủ để tạo sức mạnh bền vững nếu nền tảng nhân lực vẫn yếu. Theo PGS.TS. Lưu Bích Ngọc – Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, "đi nhanh nhưng chưa vững" chính là nghịch lý của kinh tế số Việt Nam hiện nay. Khi giáo dục và đào tạo chưa kịp đổi mới để hình thành năng lực số cho công dân, mọi nỗ lực đầu tư hạ tầng và công nghệ có thể chỉ dừng lại ở lớp vỏ phát triển.

Giáo dục – nền tảng quyết định năng lực số quốc gia- Ảnh 1.

Quy mô nền kinh tế số Việt Nam đã đạt khoảng 30 tỷ USD vào năm 2023, đứng thứ hai khu vực về tốc độ tăng trưởng

Trong bức tranh phát triển kinh tế số Đông Nam Á, Việt Nam được xem là điểm sáng về tốc độ. Theo các báo cáo quốc tế, quy mô nền kinh tế số Việt Nam đã đạt khoảng 30 tỷ USD vào năm 2023, đứng thứ hai khu vực về tốc độ tăng trưởng. Hạ tầng viễn thông, chính phủ điện tử, thanh toán số và các dịch vụ trực tuyến phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. 

Cùng với đó, nhiều chính sách lớn đã được ban hành: Nghị quyết 52-NQ/TW (2019) về chủ trương tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định 749/QĐ-TTg (2020) phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia; và Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược. 

Tuy nhiên, đằng sau tốc độ tăng trưởng ấn tượng là một thực tế đáng suy nghĩ. PGS.TS. Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, nhận định: "Việt Nam phát triển nhanh về hạ tầng và chính sách, nhưng yếu ở trụ cột nhân lực. Nếu không giải quyết được bài toán nhân lực số, mọi nỗ lực về hạ tầng và công nghệ sẽ không phát huy hết giá trị". 

Giáo dục – nền tảng quyết định năng lực số quốc gia- Ảnh 2.

PGS.TS Lưu Bích Ngọc cho rằng: Chuyển đổi số cần nhân lực vừa giỏi công nghệ, vừa biết tư duy và học hỏi không ngừng.

"Đi nhanh nhưng chưa đi vững"

Theo thống kê công khai, hơn 70% lực lượng lao động Việt Nam chưa qua đào tạo chính quy. Các khảo sát khu vực ASEAN cũng cho thấy kỹ năng số trung bình của lao động Việt Nam vẫn thấp hơn mức trung bình. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp – đặc biệt trong các ngành sản xuất, công nghiệp chế biến, dịch vụ số đang thiếu nghiêm trọng nhân lực có khả năng vận hành, phân tích và đổi mới trên nền tảng công nghệ.

PGS.TS. Ngọc cho rằng: "Chuyển đổi số đòi hỏi nhân lực không chỉ có kiến thức kỹ thuật mà còn phải có khả năng tư duy, phân tích và học tập suốt đời. Đó là những phẩm chất được hình thành từ giáo dục".

Bà chỉ rõ, điểm nghẽn lớn nằm ở năng lực thích ứng của hệ thống giáo dục. Trong khi thế giới đã chuyển mạnh sang mô hình đào tạo linh hoạt, cá nhân hóa, kết hợp giữa học thuật và kỹ năng thực hành, thì Việt Nam vẫn nặng về lý thuyết, ít gắn với thực tế doanh nghiệp. "Chúng ta có chương trình, có công nghệ, có hạ tầng, nhưng chưa có đủ con người để vận hành và sáng tạo trong môi trường số. Giáo dục phải đi trước một bước thì kinh tế số mới có nền tảng vững chắc", bà cho biết.

Giáo dục là "máy cái" của phát triển số

Theo Báo cáo Taking Stock: Vietnam Economic Update 2025 của Ngân hàng Thế giới, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao dựa trên công nghệ, Việt Nam cần tăng đầu tư vào giáo dục chất lượng và phát triển kỹ năng số, đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực đội ngũ lao động trình độ cao và thúc đẩy gắn kết giữa nhà trường với doanh nghiệp. Báo cáo Global Skills Report 2025 của Coursera, lĩnh vực trí tuệ nhân tạo sinh (Generative AI) cũng ghi nhận mức tăng trưởng người học cao nhất – tăng 195% so với năm trước – cho thấy nhu cầu đào tạo về kỹ năng AI và dữ liệu đang bùng nổ toàn cầu, đặt áp lực lên hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực.

Ở Việt Nam, để hình thành xã hội số, kinh tế số phải bắt đầu từ năng lực số của công dân, của lực lượng lao động chứ không chỉ dừng ở năng lực số của doanh nghiệp hay cơ quan quản lý. Trong đó, giáo dục số – từ phổ thông, dạy nghề đến đại học – là khâu then chốt tạo nên nguồn nhân lực số cho quốc gia. PGS.TS. Ngọc so sánh: "Nếu coi kinh tế số là cỗ máy, thì giáo dục chính là máy cái. Máy cái có tốt thì các bộ phận khác mới vận hành hiệu quả".

Trên thực tế, dù tỷ lệ người dân tiếp cận Internet đã trên 75% và gần 100% trường học có kết nối mạng, song việc ứng dụng công nghệ trong dạy và học mới chỉ dừng ở mức công cụ. Phần lớn giáo viên vẫn thiếu kỹ năng số cơ bản, trong khi chương trình đào tạo sư phạm chưa chú trọng phát triển năng lực số cho người học. 

Giáo dục – nền tảng quyết định năng lực số quốc gia- Ảnh 3.

Giáo dục không chỉ cung cấp nhân lực, mà còn hình thành công dân có năng lực thích ứng, sáng tạo và làm chủ tương lai.

"Giáo viên là người truyền cảm hứng và dẫn dắt học sinh vào thế giới số. Nếu họ chưa được trang bị đầy đủ, sẽ rất khó để tạo ra thế hệ công dân số có năng lực", bà Ngọc nhấn mạnh.

Nhìn sâu hơn, đây không chỉ là vấn đề kỹ năng, mà còn là vấn đề cơ chế. Việc đào tạo giáo viên, đầu tư thiết bị hay cập nhật chương trình vẫn bị chi phối bởi cơ chế quản lý tập trung, thiếu tự chủ và thiếu động lực đổi mới sáng tạo. Khi giáo dục chưa đổi mới từ gốc, nhân lực số sẽ luôn đi sau nhu cầu của nền kinh tế số. 

Khoảng trống giữa đào tạo và nhu cầu thị trường

Một thực tế khác được PGS.TS. Lưu Bích Ngọc chỉ ra là sự thiếu gắn kết giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp. "Nhiều trường đại học, cao đẳng vẫn đào tạo theo chương trình cũ, chưa cập nhật nhu cầu nhân lực của nền kinh tế số. Trong khi đó, doanh nghiệp lại chưa tham gia sâu vào quá trình đào tạo, đặt hàng nhân lực hay hỗ trợ sinh viên thực hành," bà phân tích.

Theo báo cáo, Việt Nam cần khoảng 150.000 lao động công nghệ thông tin mỗi năm, nhưng các cơ sở đào tạo chỉ đáp ứng được chưa đến một nửa. Những lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu, an toàn thông tin… đang thiếu hụt nghiêm trọng.

PGS.TS. Ngọc cho rằng, để lấp khoảng trống này, cần một cơ chế phối hợp đa chiều giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà trường. Nhà nước giữ vai trò điều phối, còn trường học phải chuyển sang mô hình mở, linh hoạt, ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy và kết nối với doanh nghiệp trong quá trình đào tạo. 

Giáo dục – nền tảng quyết định năng lực số quốc gia- Ảnh 4.

Cần một cơ chế phối hợp đa chiều giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà trường trong chuyển đổi số.

Phát triển nhân lực số từ giáo dục thường xuyên và học tập suốt đời

Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) đã đặt rõ yêu cầu "triển khai sâu rộng phong trào học tập số, phổ cập kiến thức khoa học, công nghệ và kỹ năng số cho cán bộ, công chức và nhân dân". Thực hiện chủ trương này, ngày 28/11/2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 18/2024/TT-BGDĐT về Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu người học, cập nhật kiến thức, kỹ năng và chuyển giao công nghệ.

Trong số tám chương trình được ban hành, đáng chú ý có Chương trình Giáo dục về Phát triển kinh tế (210 tiết, gồm chuyên đề "Chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm") và Chương trình Giáo dục về chuyển đổi số trong cộng đồng (180 tiết), nhằm bổ sung kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số để thích nghi với công việc và đời sống trong xã hội số.

Chương trình này thuộc hệ thống giáo dục thường xuyên, cấp chứng chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, được triển khai bởi các trung tâm giáo dục thường xuyên trên toàn quốc.

Theo PGS.TS Ngọc, đây là hướng đi rất đúng: "Phát triển nhân lực số không thể chỉ tập trung vào học sinh, sinh viên, mà phải lan tỏa đến toàn xã hội. Khi người lao động, cán bộ, người dân đều có năng lực số, chuyển đổi số mới thực sự đi vào đời sống". Phong trào "Bình dân học vụ số" đang được phát động và triển khai cũng giúp trang bị kỹ năng số cho toàn bộ dân số, đặc biệt trong bối cảnh già hoá dân số nhanh, nền kinh tế vẫn cần tận dụng các nhân lực ở độ tuổi cao nhưng lại có kỹ năng số thành thạo.

Hướng tới chính sách nhân lực số bền vững

Từ những phân tích của PGS.TS. Lưu Bích Ngọc, có thể thấy phát triển kinh tế số không chỉ là câu chuyện của công nghệ hay đầu tư hạ tầng, mà trước hết là câu chuyện của con người và của hệ thống giáo dục. Những chính sách chuyển đổi số cần được thiết kế song hành với chính sách phát triển nhân lực số, gắn kết ba yếu tố: giáo dục – doanh nghiệp – quản lý nhà nước.

Đã đến lúc Việt Nam cần một chiến lược tổng thể về phát triển nhân lực số, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ thông tin mà ở tất cả các ngành – từ nông nghiệp, y tế đến văn hóa, du lịch, các ngành nghề dịch vụ... Khi năng lực số được lan tỏa sâu trong xã hội, chuyển đổi số mới trở thành động lực thực sự cho tăng trưởng và phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.

Giáo dục không chỉ cung cấp nhân lực, mà còn hình thành công dân có năng lực thích ứng, sáng tạo và làm chủ tương lai. Một quốc gia muốn đi xa trong kỷ nguyên số không thể chỉ có công nghệ tiên tiến, mà phải có con người tiên phong