Khi khoa học, công nghệ là động lực tăng trưởng mới của doanh nghiệp
Sự chuyển mình của doanh nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số đang khẳng định một điều: khoa học công nghệ không còn là “công cụ hỗ trợ”, mà là động lực trung tâm cho mọi chiến lược tăng trưởng. Khi doanh nghiệp lấy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo làm trục phát triển, họ không chỉ làm ra sản phẩm, mà kiến tạo năng lực cạnh tranh dài hạn. Tuy nhiên, hành trình khai thác trọn vẹn sức mạnh của khoa học, công nghệ vẫn đang có nhiều rào cản lớn.
Coi trọng khoa học, công nghệ trong doanh nghiệp
Tiếp tục tinh thần của Văn kiện Ðại hội XII, Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định một cách toàn diện và sâu sắc hơn vai trò của Khoa học và công nghệ (KH và CN): “Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương KH và CN là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển KH và CN phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; “Phát triển mạnh mẽ KH và CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính để tăng trưởng kinh tế”.

BSR luôn đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong nhiều năm qua
Mới đây nhất, Nghị quyết 57-NQ/TW, Bộ Chính trị cũng đã đặt mục tiêu tăng cường năng lực, sự cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc đầu tư, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết xác định đến năm 2030, doanh nghiệp chiếm trên 70% tổng đầu tư cho khoa học công nghệ và đến năm 2045, tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số sẽ tương đương các nước phát triển.
Và Nghị quyết của Quốc hội nêu rõ việc tập trung vào việc thí điểm các cơ chế, chính sách đột phá để thúc đẩy khoa học công nghệ và chuyển đổi số, đặc biệt nhấn mạnh vào việc hỗ trợ doanh nghiệp, bao gồm các chính sách như hỗ trợ xây dựng nhà máy sản xuất chip, ưu đãi tài chính và thuế, cùng với việc tháo gỡ các rào cản pháp lý. Nghị quyết cũng đề cập đến việc ưu tiên phát triển khoa học công nghệ ở các vùng khó khăn, khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng, cũng như áp dụng thuế ưu đãi đối với thu nhập từ hoạt động khoa học công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030) đặt ra mục tiêu đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 50%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%. Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 cũng xác định mục tiêu đến năm 2025: “Nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó TFP đạt khoảng 45% GDP”. Ngày 22/12/2024, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tiếp tục đặt ra mục tiêu đến năm 2030, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%,...
![]()  | 
| 
 IDEA GROUP là doanh nghiệp KHCN từ năm 2017, hiện nay hàng năm IDEA vẫn đầu tư 10-15% lợi nhuận hằng năm cho R&D  | 
Từ tăng trưởng theo chiều rộng đến tăng trưởng dựa trên tri thức và đổi mới
Thực tiễn cho thấy, trên bình diện rộng, KH và CN đang từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Ở góc độ cụ thể, doanh nghiệp chính là lực lượng chủ chốt đang nghiên cứu phát triển và áp dụng các giải pháp KH và CN vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu,… đóng góp phần lớn vào GPD của đất nước và tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế.
Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ dựa vào vốn và lao động sang mô hình tăng trưởng dựa trên KH và CN và đổi mới sáng tạo (ĐMST). Các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của hoạt động ĐMST, đưa nội dung này trở thành trung tâm của các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã chi khoảng 1,6% doanh thu hằng năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đã thành lập Quỹ Phát triển KH và CN để đẩy mạnh các hoạt động KH và CN và ĐMST.
Trong số đó, có thể kể đến những cái tên tiêu biểu như Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, Thaco,…
Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) - đơn vị quản lý, vận hành Nhà máy Lọc dầu Dung Quất là một trong những doanh nghiệp KHCN quy mô lớn, ứng dụng công nghệ hiện đại bậc nhất Việt Nam. Cuối năm 2014, khi nguồn dầu thô Bạch Hổ suy giảm cả về sản lượng lẫn chất lượng, cạnh tranh nội địa gia tăng, cạnh tranh từ nguồn nhập khẩu cũng tăng, BSR đối diện với nhiều bài toán khó về việc phải giảm chi phí chế biến, đa dạng hóa nguồn dầu thô đầu vào và cải thiện hiệu quả năng lượng nếu muốn duy trì lợi thế. Sau quá trình nghiên cứu, BSR đã đưa ra lời giải, một trong số đó là cụm công trình “Các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của BSR” được triển khai trên toàn hệ thống trong giai đoạn 2015-2019. Cụm công trình này sau đó được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ.
Cụm công trình này cũng đã giúp Công ty nâng cao khả năng chế biến nhiều chủng loại dầu thô mới trong và ngoài nước. Qua đó đa dạng hóa nguồn cung và đảm bảo đủ nguyên liệu với giá cạnh tranh cho Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất trong bối cảnh sản lượng và chất lượng dầu thô Bạch Hổ ngày càng suy giảm. Trên nền tảng đó, các chuyên gia của BSR đã phát triển giải pháp giúp loại bỏ trên 70% các tạp chất kim loại sắt (Fe) và canxi (Ca) trong nguyên liệu dầu thô, góp phần đảm bảo vận hành an toàn, ổn định cho phân xưởng chính Cracking xúc tác (RFCC) và giảm tiêu thụ xúc tác với giá trị trên 10 triệu USD/năm. Năng lực tối ưu tiếp tục thể hiện ở việc nâng công suất phân xưởng xử lý Kerosene (KTU) lên đến 130% so với thiết kế, giúp NMLD Dung Quất sản xuất thêm 1,02-1,09 triệu thùng nhiên liệu phản lực Jet A1/năm, tương ứng lợi nhuận tăng thêm trên 3 triệu USD/năm. Đồng thời giải quyết được giới hạn kỹ thuật của hệ thống đỉnh tháp chưng cất dầu thô, cho phép Nhà máy chế biến được các loại dầu thô ngọt nhẹ nhập khẩu có giá trị kinh tế cao.
Song song với đó, BSR phát triển thành công một loại sản phẩm mới là dầu nhiên liệu hàng hải (MFO) theo tiêu chuẩn quốc tế IMO-2020 có chất lượng và giá trị cao (hàm lượng lưu huỳnh nhỏ hơn 0,5%wt); đồng thời sản xuất thêm được trên 5 nghìn tấn propylene/năm, đáp ứng đủ nguyên liệu hóa dầu cho phân xưởng sản xuất hạt nhựa Polypropylene lên 110% công suất, đem lại khoản lợi ích kinh tế ước tính trên 3 triệu USD/năm. Các giải pháp đồng bộ này giúp giảm chỉ số tiêu thụ năng lượng EII của Nhà máy từ mức 118% trong năm 2014 xuống mức 103-106% trong các năm 2018, 2019 (theo tính toán, giảm 1% chỉ số EII đã tiết kiệm được khoảng 2,6 triệu USD/năm). Từ đó, kéo tổng chi phí sản xuất từ 7,1 USD/thùng dầu trong năm 2014 xuống còn 4,9 USD/thùng dầu trong năm 2019 (tiết kiệm tương ứng khoảng 24-43 triệu USD/năm). Ngay sau khi kết thúc đề án, đến năm 2019, tổng hiệu quả kinh tế của cụm công trình đạt 4.270 tỷ đồng và sẽ tiếp tục tăng theo từng năm.
Tháng 7/2025, BSR chính thức ra mắt sản phẩm lưu huỳnh hạt (sulfur pastilles), bước đi vừa mang ý nghĩa công nghệ vừa gia tăng an toàn - môi trường so với lưu huỳnh lỏng truyền thống. Thị trường ứng dụng của lưu huỳnh hạt rất rộng (phân bón DAP/NPK, axit sulfuric, thuốc bảo vệ thực vật, giấy, cao su, luyện kim,...), tạo thêm một hướng doanh thu mới, đồng thời khép kín bài toán giá trị của chuỗi lọc hóa dầu.
Nếu BSR thành công với nhiều cụm công trình khoa học, thì Công ty CP Bóng đèn Phích nước Rạng Đông - một doanh nghiệp sản xuất theo mô hình truyền thống lại nổi bật bởi sự chủ động trong đổi mới. Nhận thức rõ vai trò then chốt của khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức, Đảng bộ Công ty đã quyết định triển khai mạnh mẽ quá trình chuyển đổi, đưa Rạng Đông trở thành doanh nghiệp tiên phong trong ứng dụng KHCN vào sản xuất và quản trị. Ông Nguyễn Đoàn Thăng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông khẳng định, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là yếu tố then chốt. Do đó, từ năm 2015 Rạng Đông đã chuẩn bị những tiền đề rất cơ bản để từ 2020 bước vào Chiến lược chuyển đổi số giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn 2030, theo đuổi mục tiêu Công ty công nghệ cao, Công ty công nghệ số.
Rạng Đông đến nay vẫn tự hào là doanh nghiệp hiếm có trong cả nước có 3 Trung tâm R&D. Rạng Đông cũng là doanh nghiệp “mạnh tay” đầu tư ngân sách cho hoạt động KHCN với 22% lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, kể từ năm 2022. Trong đó 15% dành cho R&D và 7% dành cho Quỹ Đầu tư mạo hiểm, các Trung tâm R&D, 8 Trung tâm Sáng tạo sản phẩm mới và 9 Trung tâm Sáng tạo nội dung cho truyền thông số.
Rạng Đông đã phối hợp với các đối tác trong và ngoài nước, các nhà khoa học, từ đó triển khai tự động hóa từng phần, từng bước thực hiện Make in Việt Nam, chế tạo các cánh tay máy, robot lập trình sẵn và kết nối các dây chuyền lắp ráp tự động liên hoàn từ đầu đến cuối giúp giảm sức lao động, tăng năng suất. Tiến hành tinh gọn, chuẩn hóa các dây chuyền, bước đầu thực hiện số hóa, kết nối và ứng dụng các phần mềm quản lý sản xuất hướng tới đáp ứng yêu cầu sản xuất lô lớn cho các nhu cầu cá biệt hoá của khách hàng.
Từ 2020 đến 6 tháng đầu 2023, mặc dù tốc độ tăng GDP của Việt Nam suy giảm mạnh, Rạng Đông vẫn thiết lập mặt bằng tăng trưởng mới 15 - 20%/năm liên tục. Đặc biệt, trong 2 năm đại dịch Covid-19 và sự cố hỏa hoạn tại nhà máy Rạng Đông, trong khi GDP Việt Nam rơi thẳng đứng, hơn 55 nghìn doanh nghiệp (DN) tạm dừng kinh doanh, 48,1 nghìn DN chờ giải thể, 16,7 nghìn DN đã hoàn tất thủ tục giải thể, Rạng Đông vẫn có mức tăng trưởng 16,0%, lợi nhuận tăng 18,3%, nộp ngân sách tăng 23,2%, đảm bảo lương, thưởng cho người lao động, không ai bị nghỉ việc, vốn chủ sở hữu tăng 26,8%.
Ngày 07/11/2022, Rạng Đông được Sở KH và CN Hà Nội cấp giấy chứng nhận là “Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ” với danh mục 68 chủng loại sản phẩm được hình thành từ kết quả Khoa học & Công nghệ.
Những sản phẩm của Rạng Đông như đèn LED nông nghiệp, đèn thông minh kết nối smartphone, giải pháp chiếu sáng tiết kiệm năng lượng theo ISO 50001 đã giúp hàng nghìn hộ sản xuất nông nghiệp và khu công nghiệp trên cả nước giảm chi phí điện năng, đồng thời góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất ô tô, Thaco đã xây dựng Tổ hợp sản xuất ô tô Chu Lai theo định hướng công nghiệp 4.0, ứng dụng robot hàn, robot sơn cùng các hệ thống quản lý hiện đại như MES và ERP để tích hợp toàn bộ chuỗi cung ứng. Đây là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp chuyển mình mạnh mẽ từ một nhà sản xuất đơn thuần thành tập đoàn công nghiệp đa ngành có trình độ công nghệ cao.
Xác định nghiên cứu và phát triển (R&D) là chìa khóa gia tăng giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh và hướng tới phát triển bền vững, Thaco tập trung tuyển dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ kỹ sư sản xuất, kỹ sư R&D theo định hướng chiến lược phục vụ thị trường trong nước, xuất khẩu và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Nếu năm 2011 Thaco mới có 266 kỹ sư (chiếm 7% tổng nhân sự) thì đến năm 2024, con số này đã vượt 9.300 người, tương đương 20% lực lượng lao động. Riêng tại Chu Lai hiện có 2.000 kỹ sư sản xuất và 700 kỹ sư R&D chuyên nghiên cứu ứng dụng công nghệ, vật liệu mới và phát triển sản phẩm.
Tập đoàn đã triển khai nhiều đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, đóng góp tích cực cho sự phát triển của kinh tế và khoa học, công nghệ Việt Nam. Mỗi năm, Thaco thực hiện hơn 200 đề tài sáng kiến và hơn 2.000 cải tiến kỹ thuật trong sản xuất. Riêng năm 2023, gần 3.500 sáng kiến được ứng dụng thực tế, giúp tiết kiệm hơn 70 tỷ đồng và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong lĩnh vực ô tô - ngành nghề chủ lực suốt hơn hai thập kỷ, Trung tâm R&D Thaco Auto liên tục nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ, vật liệu và hệ thống thông minh mới. Nhiều sản phẩm mang dấu ấn Việt đã ra đời như xe khách giường nằm cao cấp, xe bus khung gầm Mercedes-Benz, xe chuyên dụng phục vụ y tế, hay dây chuyền sản xuất nhíp ô tô tự động hóa.
Nhờ đó, Thaco đã làm chủ hoàn toàn thiết kế và công nghệ sản xuất dòng xe bus, đạt tỷ lệ nội địa hóa 60%, chiếm 65% thị phần trong nước và xuất khẩu sang Philippines, Thái Lan, Singapore. Ở phân khúc xe tải, tỷ lệ nội địa hóa đạt 35-40%, chiếm 45% thị phần nội địa; xe du lịch đạt tỷ lệ tương tự và chiếm 25% thị phần, trong đó một số mẫu đã được xuất khẩu sang khu vực ASEAN.
Năm 2023, Trung tâm R&D được mở rộng thêm 4,96 ha tại Khu kinh tế Chu Lai, hướng tới nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ và sản phẩm, hoàn thiện chiến lược tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với đó, hàng loạt dự án khoa học - công nghệ được triển khai đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng lực đổi mới, tối ưu quản trị và sản xuất không chỉ tại Thaco mà còn ở các doanh nghiệp thành viên trong hệ sinh thái của tập đoàn.
Các doanh nghiệp điển hình như BSR, Rạng Đông, Thaco,… cho thấy khi khoa học công nghệ được đặt ở trung tâm chiến lược, doanh nghiệp không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn định hình giá trị mới cho ngành công nghiệp Việt Nam.
Chính sách còn “trên giấy”, doanh nghiệp vẫn tự xoay xở
![]()  | 
| 
 Dây chuyền sản xuất LED Bulb tự động tại Rạng Đông  | 
Dù năm 2007, Chính phủ đã có Nghị định số 80/2007/NĐ-CP để phát triển doanh nghiệp KHCN, Luật KH và CN năm 2013 được ban hành, nhiều nghị định và thông tư hướng dẫn đã ra đời nhưng mục tiêu phát triển 3.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KHCN) vào năm 2015, và 5.000 doanh nghiệp vào năm 2020 theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ cho đến nay vẫn chưa đạt.
Theo TS. Nguyễn Quân - Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam cho rằng, Luật KH, CN và Đổi mới sáng tạo mới thông qua đã có đột phá nhưng vẫn chỉ mang tính chất quy định chung tầm vĩ mô. Chúng ta chấp nhận đầu tư mạo hiểm, chấp nhận rủi ro trong hoạt động nghiên cứu, chấp nhận các viện, trường có thể thương mại hóa kết quả nghiên cứu thế nhưng vẫn chỉ là quy định chung của luật. Trong nhiều năm qua, vì quy định về tỷ lệ doanh thu từ sản phẩm khoa học và công nghệ đối với doanh nghiệp KHCN vẫn giữ nguyên: năm đầu tiên phải đạt 30% tổng doanh thu, năm thứ hai 50%, và từ năm thứ ba trở đi tối thiểu 70% nên kết quả thực tế chưa đạt như kỳ vọng. Doanh nghiệp KHCN chỉ được hưởng ưu đãi thuế khi đạt các tỷ lệ này, trong khi trên thực tế, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, có năm đạt, có năm không. Chính vì vậy, chính sách này chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp đăng ký trở thành doanh nghiệp KHCN.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã có rất nhiều giải pháp mang tính đột phá cho KHCN kể cả Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội vừa rồi cũng đã cho phép các tổ chức KHCN công lập có thể thành lập và vận hành các doanh nghiệp KHCN. Vấn đề bây giờ chúng ta cần tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội mang tính khả thi cao hơn.
Đồng tình với TS. Nguyễn Quân, TS. Nguyễn Chí Hưng, CEO Công ty Cổ phần Nghiên cứu kỹ thuật Cơ khí chính xác (RPMEC) cho biết, RPMEC từng được công nhận là doanh nghiệp KHCN và không gặp khó khăn khi làm thủ tục, bởi bản thân công ty định hướng nghiên cứu, có đội ngũ nhân sự mạnh và nhiều sáng chế trong tự động hóa linh hoạt. Tuy nhiên, “lợi ích thực tế quá ít, chỉ được miễn thuế với sản phẩm đăng ký, trong khi khoa học thay đổi từng ngày, không thể bán mãi một model,” ông Hưng nói.
Vì vậy, RPMEC không kéo dài chứng nhận doanh nghiệp KHCN, dù vẫn duy trì các hoạt động nghiên cứu và hợp tác quốc tế mạnh mẽ. “Chúng tôi vẫn tạo ra sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, nhưng hầu như không nhận được ưu đãi nào,” ông chia sẻ, đồng thời nhấn mạnh cần ưu đãi theo sản phẩm công nghệ, chứ không chỉ theo danh nghĩa doanh nghiệp KHCN.
“Với những sản phẩm như robot, cobot, AMR hay hệ thống điều khiển thông minh, nên có chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả cho các công ty tích hợp, sử dụng hoặc phát triển sản phẩm này. Khi đó, toàn ngành tự động hóa mới có động lực bứt phá thật sự,” ông Hưng đề xuất.
Từ góc nhìn khác, ông Đỗ Hoàng Trung - Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ IDEA chia sẻ, IDEA trở thành doanh nghiệp KHCN từ năm 2017 nhưng quy trình chứng minh năng lực nghiên cứu - ứng dụng hiện nay vẫn nặng tính hàn lâm. “Chúng tôi phải chứng minh rằng kết quả R&D của mình là thật, đang chạy trong nhà máy, chứ không chỉ là mô hình”, ông Đỗ Hoàng Trung nói.
Đặc thù của ngành chế tạo là mỗi năm có hàng trăm dự án khác nhau, không lặp lại, nên việc khớp với danh mục sản phẩm đăng ký là rất khó. “Sai một chi tiết có thể bị truy thu thuế,” điều này cho thấy doanh nghiệp KHCN hiện vẫn đối mặt với rủi ro pháp lý đáng kể.
Dù vậy, IDEA vẫn đầu tư 10-15% lợi nhuận hằng năm cho R&D, thành lập Trung tâm R&D Robot và Tự động hóa IDEA, phát triển các sản phẩm như AGV iDonkey, Robot 6 trục và mô hình đào tạo kỹ sư công nghệ gắn với sản xuất thực tế. Tuy nhiên, lợi ích từ danh nghĩa doanh nghiệp KHCN vẫn chưa tương xứng. “Chính sách ưu đãi còn phân mảnh, thiếu hướng dẫn cụ thể. Các nghị quyết là nền tảng rất tốt, nhưng chưa chạm tới thực tế doanh nghiệp”, ông Đỗ Hoàng Trung nhận định.
Theo các doanh nghiệp, để tháo gỡ vướng mắc hiện nay, cần: thứ nhất, có cẩm nang hướng dẫn triển khai Nghị quyết 56-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW từ Bộ đến địa phương; thứ hai, thiết lập cơ chế “một cửa” cho DN KHCN; thứ ba, cụ thể hóa ưu đãi về thuế, đất và vốn vay R&D; thứ tư, thừa nhận kết quả R&D ứng dụng như robot, AGV, phần mềm điều khiển là kết quả khoa học hợp pháp; và thứ năm là duy trì cơ chế phản hồi định kỳ từ doanh nghiệp để chính sách không “nằm trên giấy”.
TS. Nguyễn Chí Hưng nhấn mạnh: “Doanh nghiệp cần vốn là hiển nhiên, nhưng ưu đãi thuế cho sản phẩm công nghệ mới là cú hích thực chất. Khi doanh nghiệp ký được hợp đồng, tạo ra sản phẩm, lúc đó chính sách mới thực sự đánh trúng và hỗ trợ đúng người”.
Thực tế đang cho thấy, dù phải “vừa làm vừa gỡ”, nhiều doanh nghiệp như RPMEC, IDEA, Rạng Đông, BSR,… vẫn kiên định đặt khoa học và công nghệ làm nền tảng phát triển. Họ đang chứng minh rằng động lực tăng trưởng mới không nằm ở ưu đãi hành chính, mà ở chính năng lực sáng tạo và tinh thần đổi mới.
Nhưng chỉ số ít doanh nghiệp khoa học là chưa đủ để biến KH, CN và đổi mới sáng tạo thành “động lực chính để tăng trưởng kinh tế”.
					
          

