Khoa học công nghệ và chuyển đổi số đóng vai trò then chốt phát triển kinh tế biển bền vững

07:11, 11/06/2025

Với bờ biển dài Việt Nam có cơ hội lớn phát triển kinh tế biển theo hướng xanh, bền vững. Muốn tận dụng thời cơ này, cần đột phá về thể chế, công nghệ và đầu tư đặc biệt là vai trò dẫn dắt của khoa học công nghệ và chuyển đổi số.

Công nghệ - chìa khóa mở cánh cửa kinh tế biển bền vững

Việt Nam là quốc gia có trên 3.260 km đường bờ biển, diện tích vùng biển trên 1 triệu km². Giai đoạn 2018 - 2022, 28 tỉnh, thành phố ven biển đã đóng góp khoảng 49 - 51% GRDP cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2022 đạt trên 10,9 tỷ USD, tăng mạnh so với 8,8 tỷ USD năm 2018. Thủy sản Việt Nam đã hiện diện tại hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội là hàng loạt thách thức: nguồn lợi thủy sản ven bờ giảm 30 - 40% chỉ trong một thập kỷ, môi trường biển ô nhiễm nặng nề với 70% rác thải nhựa từ đất liền, biến đổi khí hậu đe dọa 30% diện tích đất ven biển, hệ thống thể chế quản lý biển còn chồng chéo, thiếu chia sẻ dữ liệu biển…

Xuất khẩu thủy sản kết hợp công nghệ IoT và AI tạo ra chuỗi cung ứng minh bạch, bền vững từ nuôi trồng tới bàn ăn. Ảnh minh họa

Theo các chuyên gia, để phát triển kinh tế biển bền vững, Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận từ khai thác truyền thống sang áp dụng khoa học công nghệ, công nghệ số, đổi mới sáng tạo nhằm quản lý hiệu quả tài nguyên, bảo vệ hệ sinh thái và nâng cao giá trị gia tăng.

Công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… đang được ứng dụng mạnh mẽ trong nuôi trồng và khai thác thủy sản. Các công ty thủy sản tại Bà Rịa - Vũng Tàu, như Công ty CP Thủy sản Phước Hải, đã tiên phong với mô hình nuôi siêu thâm canh tuần hoàn, sử dụng cảm biến, đo môi trường tự động, không dùng kháng sinh. Doanh nghiệp này có thể đạt năng suất tới 80 tấn/ha/vụ (cao gấp 16 lần mô hình truyền thống), xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường khắt khe như châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ…

Tại Nam Định, kinh tế biển được thúc đẩy nhờ định hướng phát triển hệ thống cảng biển, dịch vụ logistics, cảng tổng hợp phục vụ Khu kinh tế Ninh Cơ, công nghiệp luyện thép và may mặc. Địa phương này còn xây dựng chiến lược hướng biển, coi đô thị thông minh, du lịch sinh thái, nông thôn mới kiểu mẫu là trọng tâm phát triển, trong đó khoa học công nghệ đóng vai trò động lực tăng trưởng. Tỉnh Khánh Hòa cũng đang tập trung ứng dụng công nghệ số trong mọi hoạt động kinh tế biển, từ quản lý tài nguyên đến phát triển du lịch.

Kinh tế biển xanh - hướng đi chiến lược trong bối cảnh chuyển dịch toàn cầu

Theo TS Dư Văn Toán - chuyên gia đến từ Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Việt Nam cần một bước đi đột phá để bắt kịp xu thế toàn cầu: từ xây dựng hành lang pháp lý cho kinh tế biển xanh, đến quy hoạch không gian biển tích hợp, đảm bảo vừa khai thác hiệu quả, vừa bảo vệ môi trường biển.

Trong Quy hoạch điện VIII sửa đổi, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển 139 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2050 với tổng vốn hơn 420 tỷ USD. Riêng đến 2035, sẽ đạt 17 GW tương đương khoảng 50 tỷ USD đầu tư. Đây không chỉ là mục tiêu năng lượng sạch mà còn mở ra cơ hội tích hợp “tổ hợp kinh tế biển xanh” kết hợp sản xuất điện gió, nuôi trồng thủy sản xa bờ và bảo vệ môi trường.

Bên cạnh đó, các mô hình nuôi biển công nghệ cao ứng dụng AI, cảm biến thời gian thực đang nổi lên như xu thế chủ đạo. Những mô hình này vừa nâng cao năng suất, vừa giúp giám sát môi trường chặt chẽ, giảm thiểu rủi ro ô nhiễm. Để phát triển, Việt Nam cần chính sách thu hút vốn xanh quốc tế, phát triển vật liệu thân thiện môi trường, hạ tầng hỗ trợ nuôi xa bờ và hệ thống giám sát biển hiện đại.

Du lịch biển cũng là ngành giàu tiềm năng. Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững cần có hạ tầng bãi tắm an toàn, cảng tàu du lịch hiện đại, phương tiện vận chuyển xanh, hệ thống giám sát môi trường và chuyển đổi số các dịch vụ du lịch.

Trong lĩnh vực hàng hải, thách thức đang đặt ra là phải chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng sạch như điện, hydrogen xanh, áp dụng vật liệu ít phát thải. Việc xây dựng các cảng biển xanh nơi tích hợp logistics thông minh, lưu trữ năng lượng và kiểm soát khí thải cũng là hướng đi bắt buộc.

TS. Dư Văn Toán nhấn mạnh, các ngành công nghiệp ven biển như lọc hóa dầu, chế biến hải sản, khu công nghiệp đảo ven biển… cần được quy hoạch lại theo mô hình không phát thải. Những công nghệ mới như khử muối sản xuất nước ngọt, khai thác hydrogen từ đáy biển, điện sóng, điện hải lưu, nhiệt năng đại dương hay điện thẩm thấu cần được đầu tư dài hạn.

Tuy nhiên, để triển khai được chiến lược phát triển kinh tế biển xanh, Việt Nam không thể chỉ dựa vào nguồn lực nội tại. Điều cần thiết là thiết lập cơ chế tài chính xanh, tăng cường hợp tác công - tư, tranh thủ nguồn vốn quốc tế và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tăng cường nghiên cứu biển sâu, dữ liệu biển.

Việt Nam đang có lợi thế tự nhiên và thời điểm thuận lợi để chuyển mình mạnh mẽ, trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển kinh tế biển không chỉ bằng khai thác tài nguyên mà bằng tri thức, đổi mới sáng tạo và sự bền vững. Đây không chỉ là yêu cầu của tương lai, mà là con đường duy nhất để phát triển dài hạn trong kỷ nguyên kinh tế xanh toàn cầu.