Kiến tạo hệ công dân số có tư duy làm chủ công nghệ
Bộ GD&ĐT mới công bố dự thảo Hướng dẫn triển khai thí điểm nội dung giáo dục trí tuệ nhân tạo trong giáo dục phổ thông.
Đây được cho là cam kết mạnh mẽ trong kiến tạo thế hệ công dân số có tư duy làm chủ công nghệ thay vì bị công nghệ dẫn dắt. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cần lưu ý để việc thí điểm thực sự tạo “cú hích” thực chất.

Giờ Tin học tại Trường Phổ thông liên cấp Phenikaa. Ảnh: NTCC
Công nghệ phải phục vụ con người
TS Tôn Quang Cường - Chủ nhiệm khoa Công nghệ giáo dục, Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định: Việc Bộ GD&ĐT ban hành Dự thảo hướng dẫn triển khai thí điểm giáo dục trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục phổ thông là bước chuyển mình mang tính chiến lược, đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay.
Đặt trong bối cảnh giáo dục khu vực và toàn cầu, đây không chỉ là sự cập nhật về kỹ thuật, công nghệ, mà còn là một cam kết mạnh mẽ trong kiến tạo thế hệ công dân số có tư duy làm chủ công nghệ thay vì bị công nghệ dẫn dắt.
Nhìn vào cấu trúc của Khung nội dung giáo dục AI trong dự thảo, TS Tôn Quang Cường đánh giá cao sự tiệm cận với các chuẩn mực tiên tiến của thế giới như ISTE hay UNESCO. Điểm sáng lớn nhất là việc xác định bốn mạch kiến thức cốt lõi được đan cài chặt chẽ: Tư duy lấy con người làm trung tâm; đạo đức AI; các kỹ thuật - ứng dụng AI; thiết kế hệ thống AI.
Thay vì sa đà vào việc đào tạo học sinh trở thành những “thợ viết code” máy móc, dự thảo đã đặt “tư duy lấy con người làm trung tâm” lên hàng đầu. Đây là một tuyên ngôn sư phạm quan trọng: Công nghệ phải phục vụ con người; học sinh cần học cách đánh giá các giải pháp AI dựa trên lợi ích cộng đồng, thực sự có trách nhiệm với chính bản thân mình và xã hội trước khi học cách tạo ra chúng theo những mục đích khác nhau.
“Lộ trình triển khai theo mô hình “xoắn ốc” cũng cho thấy sự thấu đáo về tâm lý lứa tuổi. Ở tiểu học, học sinh được tiếp cận AI qua trực quan, cảm nhận và hình thành thói quen bảo vệ dữ liệu. Lên THCS, các em bắt đầu hiểu sâu về “nguyên liệu” của AI là dữ liệu và thuật toán.
Đến THPT, học sinh không chỉ dừng lại ở người sử dụng, mà được trao quyền để trở thành người đồng sáng tạo, thiết kế và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Cách tiếp cận này giúp kiến thức thẩm thấu tự nhiên, tránh gây sốc hay quá tải - lo ngại thường trực khi đưa nội dung mới vào chương trình giáo dục phổ thông”, TS Tôn Quang Cường đánh giá.
Nêu ý kiến từ cơ sở giáo dục, ông Trần Văn Hân - Phó Hiệu trưởng Trường THPT Tháp Mười (Đồng Tháp) đánh giá: Quan điểm xây dựng khung năng lực trí tuệ nhân tạo trong dự thảo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT rất đầy đủ, khoa học, góp phần hình thành phát triển 5 phẩm chất chủ yếu và 3 cặp năng lực chung; lấy con người làm trung tâm, đề cao yếu tố đạo đức và trách nhiệm.
Khung nội dung giáo dục AI đảm bảo các yếu tố: Lấy con người làm trung tâm, đạo đức AI, các kỹ thuật và ứng dụng AI, thiết kế hệ thống AI. Hình thức triển khai đa dạng tùy điều kiện thực tiễn đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, nhu cầu và năng lực học sinh, không gây quá tải; ưu tiên thực hiện lồng ghép trong các môn học, hoạt động giáo dục thuộc Chương trình GDPT. Dự thảo cũng đưa lộ trình thí điểm và triển khai phù hợp, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả.

Ảnh: NTCC
Cần tư duy triển khai “mở” và táo bạo hơn
Để việc triển khai thí điểm đạt hiệu quả, ông Trần Văn Hân cho rằng cần sớm hành động quyết liệt và đồng bộ, trước hết là phổ biến rộng rãi tới cán bộ quản lý, giáo viên để nắm chắc mục đích, yêu cầu và quan điểm xây dựng khung giáo dục trí tuệ nhân tạo trong giáo dục phổ thông.
Hiện nay, các nhà trường vẫn còn nhiều khó khăn khi thực hiện Chương trình GDPT 2018, nhưng đồng thời lại phải triển khai thêm nội dung giáo dục về trí tuệ nhân tạo. Vì vậy, công tác truyền thông càng cần được đẩy mạnh để xã hội, phụ huynh và học sinh hiểu, đồng thuận và ủng hộ các nhà trường trong quá trình triển khai.
Ông Trần Văn Hân nhắc đến rào cản về khả năng ứng dụng AI của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Người thầy là yếu tố then chốt quyết định nhưng chưa được tập huấn, bồi dưỡng nội dung giáo dục AI đúng mức. Do đó, việc nâng cao năng lực đội ngũ trở thành yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở vật chất thiết bị, công nghệ, phần mềm, mạng kết nối hiện tại của nhiều trường còn rất hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu dạy và học cũng là một khó khăn.
Cũng nhắc đến điều kiện triển khai về đội ngũ, cơ sở vật chất, trang thiết bị ông Trần Huy Hoàng - Hiệu trưởng Trường THPT Hoàng Công Chất (xã Thanh An, tỉnh Điện Biên) đề xuất, các trường vùng khó khăn cần được ưu tiên đầu tư thiết bị, như phòng máy, đường truyền Internet, phần mềm cơ bản. Đồng thời, cho phép sử dụng thiết bị cầm tay (điện thoại thông minh) trong dạy - học AI ở mức độ kiểm soát, vì nhiều trường không đủ máy tính.
Bộ GD&ĐT nên ban hành học liệu dùng chung toàn quốc, bao gồm video minh hoạ, bài thực hành mẫu, bộ công cụ AI miễn phí. Các công cụ này phù hợp với học sinh vùng khó và đã được đề cập trong dự thảo. Về đào tạo giáo viên, cần có chương trình bồi dưỡng theo cấp độ, trong đó miền núi được ưu tiên hỗ trợ trực tiếp hoặc đào tạo từ xa. Nên có mạng lưới giáo viên nòng cốt cấp tỉnh, hỗ trợ các trường triển khai theo lộ trình.
Ông Trần Huy Hoàng cũng mong muốn Bộ GD&ĐT hướng dẫn cụ thể việc tích hợp AI vào môn Tin học - đây là con đường phù hợp nhất với các trường miền núi. Đối với chuyên đề, nên cho phép giảm tải, chỉ triển khai mức tối thiểu trong giai đoạn đầu. Cùng với đó, có cơ chế học bổng hoặc thiết bị kết nối cho học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số để đảm bảo bình đẳng cơ hội tiếp cận AI; khuyến khích tổ chức câu lạc bộ AI cấp trường/huyện, tạo sân chơi an toàn, phù hợp điều kiện miền núi.
“Tôi đánh giá dự thảo của Bộ GD&ĐT bởi sự tiến bộ, khoa học và phù hợp xu thế chuyển đổi số. Nhưng để triển khai thành công tại các tỉnh miền núi như Điện Biên, rất cần: Hạ tầng tối thiểu được ưu tiên đầu tư; học liệu và nền tảng AI miễn phí, dễ triển khai; bồi dưỡng giáo viên bài bản; giảm tải, linh hoạt, phân tầng trong đánh giá và tổ chức dạy học.
Nếu được thực hiện đồng bộ, chương trình sẽ góp phần giúp học sinh vùng cao thu hẹp khoảng cách số, phát huy năng lực, sáng tạo và sẵn sàng hội nhập trong kỷ nguyên AI”, ông Trần Huy Hoàng nhận định.
Ở góc độ chuyên gia, băn khoăn của TS Tôn Quang Cường lại ở khoảng cách từ văn bản đến thực tế lớp học. Trong đó, thách thức lớn nhất nằm ở hình thức tổ chức “lồng ghép trong các môn học”. Mặc dù đây là giải pháp tối ưu để giảm tải, nhưng lại đặt lên vai đội ngũ giáo viên hiện hành - những người vốn chưa được đào tạo chuyên sâu về AI - một áp lực khổng lồ về năng lực tích hợp.
Bên cạnh đó, dù dự thảo khuyến khích sử dụng các nền tảng mã nguồn mở, miễn phí, nhưng chênh lệch về hạ tầng kỹ thuật và đường truyền Internet giữa các vùng miền có thể tạo ra những “vùng lõm” trong tiếp cận giáo dục chất lượng cao và toàn diện.
Để việc thí điểm thực sự tạo ra cú hích chứ không chỉ dừng lại ở phong trào, TS Tôn Quang Cường cho rằng cần một tư duy triển khai “mở” và táo bạo hơn.
Thứ nhất, giáo dục AI cần đặt trọng tâm vào tư duy phản biện và đạo đức ngay từ đầu. Trong kỷ nguyên của AI tạo sinh, khả năng đặt câu lệnh và thẩm định thông tin quan trọng hơn kỹ năng lập trình thuần túy. Cụ thể, học sinh cần được trang bị “bộ lọc” về đạo đức để nhận diện thiên kiến thuật toán và tin giả - những nội dung đã được đề cập trong dự thảo, nhưng cần được nhấn mạnh hơn nữa trong thực tế giảng dạy, các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Thứ hai, cần xã hội hóa mạnh mẽ theo mô hình “Sandbox” (khung thử nghiệm). Bộ GD&ĐT đã có chủ trương khuyến khích hợp tác với doanh nghiệp, nhưng cần cơ chế cụ thể hơn để biến trường học thành nơi học sinh được trải nghiệm các công nghệ AI mới nhất từ các tập đoàn công nghệ thay vì chờ đợi nguồn ngân sách nhà nước đầu tư những phòng máy tốn kém nhưng nhanh chóng lỗi thời.
|
“Hãy trao quyền cho giáo viên trở thành “kiến trúc sư” kiến tạo không gian và cơ hội khơi gợi sự sáng tạo của người học trong lớp học thông minh; thay vì chỉ tập huấn họ dạy về AI, cung cấp công cụ để họ dùng AI hỗ trợ giảng dạy. Khi người thầy cảm nhận được giá trị thực của công nghệ, ngọn lửa cảm hứng đó sẽ được truyền sang học sinh một cách tự nhiên và bền vững nhất. Hơn hết, đây cũng là một cơ hội, cú hích để thúc đẩy, nâng tầm năng lực chuyên môn và đổi mới tiếp cận sư phạm cho đội ngũ trong hệ sinh thái giáo dục trên nền tảng công nghệ hiện nay”. - TS Tôn Quang Cường |
