Sử dụng robot Vibot-2 phục vụ trong các khu vực cách ly bệnh nhân Covid-19
Năm robot y tế vừa được đưa vào Bệnh viên Bạch Mai cơ sở 2 (Phủ Lý, Hà Nam) để thay thế nhân viên y tế phục vụ người bệnh trong khu cách ly COVID-19. Qua đó, giảm nguy cơ lây nhiễm với nhân viên y tế.
Đây là sản phẩm của đề tài khoa học và công nghệ (KH&CN) độc lập cấp Nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ đặt hàng Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS), Bộ Quốc phòng triển khai.
Hệ thống robot Vibot-2 gồm trung tâm giám sát, điều khiển và 5 robot được thiết kế theo triết lý một nền tảng - đa mục đích (One Platform - Multi Purpose) cho phép robot thay thế con người vận chuyển đồ ăn, thuốc men, nhu yếu phẩm,... từ ngoài khu vực cách ly vào trong khu vực cách ly, đến từng phòng để phục vụ người bệnh. Ở chiều ngược lại, robot vận chuyển rác thải, đồ dùng bẩn từ các buồng bệnh ra vị trí tập kết bên ngoài khu vực cách ly.
Hệ thống 5 robot y tế vận chuyển Vibot-2 tại khu vực thử nghiệm.
Vibot-2 được thiết kế có khả năng mang tải lớn nhất đến 60kg, tốc độ di chuyển cao nhất đến 30m/phút, có thể hoạt động liên tục đến 12 giờ, tự động giám sát tình trạng năng lượng và tìm nguồn sạc khi cần. Để phục vụ nhiều chức năng, nhiều loại giá đựng đồ được thiết kế với kích thước khác nhau như giá đựng đồ ăn, giá đựng thuốc, giá đựng đồ dùng, giá đựng rác. Qua tính toán sơ bộ, mỗi robot có thể thay thế được 3-5 nhân viên y tế.
Ngoài chức năng vận chuyển, robot còn có đường truyền thông tin giao tiếp riêng với trung tâm giám sát, điều khiển. Với chức năng này, người bên ngoài khu vực cách ly (y, bác sỹ, người thân) có thể giao tiếp (thăm bệnh, tư vấn, động viên,…) từ xa với bệnh nhân bên trong khu vực cách ly bằng hình ảnh, âm thanh chất lượng cao.
Từ trung tâm có thể giám sát và điều khiển được cùng lúc nhiều robot như: Theo dõi trạng thái kỹ thuật, thiết lập chương trình đưa đồ ăn, thuốc, thu rác, điều khiển di chuyển từng robot. Chính vì thế, việc mở rộng phạm vi hoạt động của robot hoặc bổ sung số lượng robot để hoạt động theo nhóm có thể được thực hiện dễ dàng.
Vibot-2 được thiết kế, chế tạo với nhiều tính năng như khả năng tự xây dựng đường đi theo bản đồ khu vực làm việc nạp trước hoặc tự xây dựng, di chuyển an toàn vào, ra khu vực được chỉ định để thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự hỗ trợ nào từ bên ngoài; khả năng phát hiện và dừng hoặc vòng tránh các loại vật cản cố định và di động để đến được các vị trí đã được xác định trước; khả năng phối hợp giữa các robot khi thực hiện cùng một nhiệm vụ trên cùng một sàn,… Đây là các tính năng giúp cho các robot có thể hoạt động linh hoạt trong môi trường bệnh viện nói riêng cũng như trong các môi trường làm việc cùng con người nói chung. Các tính năng giao tiếp và truyền thông kế thừa sản phẩm giai đoạn 1, có thay đổi để đáp ứng yêu cầu về tính thông minh, đồng bộ, tự chủ cao, khả năng điều khiển đồng thời nhiều robot, nhiệm vụ đa dạng, trong phạm vi rộng.
Vibot-2 có thể mang đồ ăn, đồ dùng, thuốc men vào cho người bệnh và thu lại rác thải, đồ bẩn đến nơi tập kết.
Theo Thiếu tướng, GS.TS.NGND Nguyễn Lạc Hồng, Phó Giám đốc Học viện kỹ thuật quân sự , từ cuối tháng 4/2021, hệ thống robot y tế vận chuyển Vibot-2 đã được lắp đặt, vận hành thử nghiệm tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Giữa tháng 5/2021, nhóm nghiên cứu đã lắp đặt để sử dụng hệ thống Vibot-2 gồm 1 Trung tâm giám sát, điều khiển và 5 robot tại Cơ sở 2 của Bệnh viện Bạch Mai (tại Phủ Lý, Hà Nam) để thay thế nhân viên y tế phục vụ trong các khu cách ly bệnh nhân COVID-19.
Cũng theo Thiếu tướng Nguyễn Lạc Hồng, các công nghệ đã được nghiên cứu, hoàn thiện giúp các Vibot vận động linh hoạt trong môi trường bệnh viện nói riêng cũng như trong các môi trường làm việc cùng con người nói chung. Do đó, có thể đầu tư nghiên cứu thêm để phát triển, mở rộng phạm vi ứng dụng của Vibot cho các nhiệm vụ khác như vận chuyển trong phân xưởng, nhà máy thông minh; giám sát, hỗ trợ thông tin… tại sân bay, triển lãm… Trên nền tảng này, hoàn toàn có thể phát triển thành các robot quân sự phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh.
Theo Bộ KH&CN, thời gian qua, Bộ KH&CN đã phê duyệt 10 nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia đột xuất để nâng cao năng lực phòng, chống đại dịch COVID-19. Kết quả nổi bật gồm: Nghiên cứu, sản xuất thành công bộ kít phát hiện SARS-CoV-2; Sản phẩm vaccine phòng COVID-19 Nanocovax đã được thử nghiệm lâm sàng trên người; robot khử khuẩn buồng bệnh; phát huy nền tảng của Hệ tri thức Việt số hóa trong phòng, chống dịch COVID-19 phục vụ hiệu quả công tác truy vết, kiểm soát các ca bệnh, khoanh vùng, dập dịch, dự báo y tế…
Những kết quả trên cho thấy sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn ngành KHCN trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, đồng thời chứng minh KHCN Việt Nam đã từng bước đủ năng lực để giải quyết các "bài toán" của đất nước.
Hồng Ngọc (T/h)