Việt Nam: Hành trình từ chính phủ điện tử đến khát vọng chính phủ số
Đối với Việt Nam, việc xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử được xem là khâu đột phá chiến lược để hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh và phục vụ người dân tốt hơn.

Bối cảnh và tầm nhìn chiến lược
Khái niệm ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước tại Việt Nam đã xuất hiện từ những năm 2000 với Đề án 112 (Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước). Tuy nhiên, phải đến khi Nghị quyết số 36a/NQ-CP năm 2015 về Chính phủ điện tử (CPĐT) ra đời, và đặc biệt là sự xuất hiện của Ủy ban Quốc gia về chính phủ điện tử (sau này là Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số), Việt Nam mới thực sự có một lộ trình bài bản và quyết liệt.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý, điển hình như: Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 749/QĐ-TTg) xác định mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu; Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021- 2025 (Quyết định 942/QĐ-TTg) nhấn mạnh vào việc làm chủ công nghệ và dữ liệu.
Những trụ cột thành công và thành tựu nổi bật
Trong vài năm trở lại đây, nền hành chính Việt Nam đã thay đổi mạnh mẽ nhờ công nghệ với những điểm sáng không thể phủ nhận.
Cổng dịch vụ công quốc gia (DVCQG)
Ra mắt vào tháng 12/2019, cổng dịch vụ công quốc gia được ví như "cửa ngõ" kết nối người dân với chính quyền. Trước đây, người dân phải đến từng cơ quan, từng bộ ngành để làm thủ tục thì nay chỉ cần một tài khoản duy nhất (SSO) để truy cập hàng ngàn dịch vụ.
Tính đến nay, hàng nghìn thủ tục hành chính đã được cung cấp ở mức độ 3 và 4 (mức độ toàn trình). Việc thanh toán trực tuyến nghĩa vụ tài chính về đất đai, nộp phạt vi phạm giao thông hay đóng bảo hiểm xã hội đã trở nên quen thuộc. Cổng dịch vụ công giúp công khai tiến độ xử lý hồ sơ, giảm thiểu tình trạng "ngâm" hồ sơ hay nhũng nhiễu, tham nhũng vặt.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Đề án 06
Đây được coi là "trái tim" của chính phủ điện tử Việt Nam. Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) là một bước đột phá. Việt Nam đã hoàn thành việc thu thập và số hóa dữ liệu của hơn 100 triệu dân. Dữ liệu này "đúng, đủ, sạch, sống" và được kết nối, chia sẻ với các bộ ngành khác.
Việc bỏ sổ hộ khẩu giấy và thay thế bằng quản lý cư trú điện tử là một cuộc cách mạng trong cải cách hành chính, giảm bớt gánh nặng giấy tờ cho người dân suốt hàng chục năm qua.
Ứng dụng VNeID và định danh điện tử
VNeID không chỉ là một ứng dụng thay thế thẻ căn cước công dân gắn chip mà còn đang dần trở thành "ví giấy tờ số" của công dân. Tích hợp giấy phép lái xe, bảo hiểm y tế, thông tin người phụ thuộc... vào VNeID giúp người dân ra đường không cần mang theo nhiều loại giấy tờ vật lý. Đây là minh chứng rõ nét nhất cho việc công nghệ mang lại tiện ích trực tiếp cho đời sống.
Trục liên thông văn bản quốc gia
Chính phủ đã thực hiện quyết liệt việc "gửi nhận văn bản điện tử" thay vì văn bản giấy. Hệ thống e-Cabinet (hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ) đã giúp các phiên họp Chính phủ giảm bớt thời gian đọc báo cáo, tập trung vào thảo luận và biểu quyết. Ước tính, việc này tiết kiệm cho ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm chi phí văn phòng phẩm và bưu chính.
Những lợi ích thiết thực đối với kinh tế - xã hội
Sự phát triển của CPĐT mang lại tác động kép, giúp người dân tiết kiệm thời gian, công sức và tiền bạc. Các thủ tục như làm hộ chiếu, đăng ký khai sinh, đăng ký xe... có thể thực hiện tại nhà. Quan trọng hơn, nó thay đổi tư duy từ "xin - cho" sang tư duy "phục vụ".
Đối với doanh nghiệp, CPĐT giúp môi trường kinh doanh trở nên minh bạch hơn. Việc kê khai thuế điện tử (đạt tỷ lệ trên 99%), hải quan điện tử giúp dòng chảy hàng hóa lưu thông nhanh chóng, giảm chi phí logistic và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.
Đối với nhà nước, CPĐT giúp tăng cường năng lực giám sát, quản lý dựa trên dữ liệu thực, giảm biên chế cơ học nhờ tự động hóa quy trình.
Thách thức và những "điểm nghẽn" cần khơi thông
Mặc dù đạt được những thành tựu ấn tượng, con đường tiến tới Chính phủ số của Việt Nam vẫn còn nhiều chông gai, trong đó "đảo dữ liệu" và khả năng chia sẻ là bài toán khó nhất. Dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương vẫn còn tình trạng cát cứ, chưa đồng bộ. Dù đã có trục liên thông văn bản quốc gia, nhưng việc kết nối các phần mềm chuyên ngành như đất đai, tư pháp, xây dựng… vẫn gặp nhiều lỗi kỹ thuật hoặc rào cản quy chế. Dữ liệu chưa thực sự "chảy" xuyên suốt.
Về hạ tầng và an toàn thông tin, khi mọi dữ liệu đều được đưa lên môi trường mạng thì nguy cơ bị tấn công mạng, đánh cắp dữ liệu công dân là rất lớn. Các cuộc tấn công APT vào hệ thống cơ quan nhà nước ngày càng tinh vi. Việc đầu tư cho an toàn, an ninh mạng tại một số địa phương vẫn chưa tương xứng với quy mô chuyển đổi số.
Về nguồn nhân lực và thói quen người dùng, không phải tất cả cán bộ công chức đều thành thạo kỹ năng số. Tư duy ngại thay đổi, sợ trách nhiệm khi áp dụng công nghệ mới vẫn còn tồn tại. Ở người dân, mặc dù tỷ lệ sử dụng smartphone cao, nhưng kỹ năng sử dụng dịch vụ công trực tuyến ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn thấp. Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến thực chất (do người dân tự làm thay vì cán bộ làm hộ) ở một số nơi chưa cao.
Một sai lầm phổ biến nữa là "tin học hóa quy trình giấy", tức là quy trình giấy rườm rà thế nào thì bê nguyên lên máy tính như vậy. Điều này khiến người dân vẫn thấy phức tạp. Chuyển đổi số đòi hỏi phải tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, cắt bỏ các bước trung gian trước khi số hóa.
Để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia số, Việt Nam đang tập trung vào các mũi nhọn sau: tiếp tục hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia như đất đai, tài chính, doanh nghiệp... Dữ liệu phải được mở để người dân và doanh nghiệp cùng khai thác, tạo ra giá trị mới; ứng dụng AI vào việc hỗ trợ cán bộ công chức soạn thảo văn bản, giải đáp thắc mắc cho người dân tự động và hỗ trợ ra quyết định, thí điểm mô hình "công chức số"; đưa VNeID trở thành ứng dụng duy nhất cần thiết cho các giao dịch dân sự và hành chính.
Những thành quả từ cổng dịch vụ công quốc gia hay Đề án 06 đã chứng minh rằng, khi có quyết tâm chính trị cao và hạ tầng công nghệ phù hợp, lợi ích mang lại cho người dân là vô cùng to lớn.
Tuy nhiên, công nghệ chỉ là công cụ. Yếu tố cốt lõi của sự thành công nằm ở "thể chế" và "con người". Chỉ khi nào mỗi cán bộ công chức coi dữ liệu là sự sống còn, mỗi người dân coi dịch vụ công trực tuyến là quyền lợi và thói quen, khi đó Việt Nam mới thực sự hoàn thành sứ mệnh chuyển đổi số, kiến tạo một quốc gia hùng cường và thịnh vượng trong kỷ nguyên mới./.
