Việt Nam: Những điểm sáng của ngành bán dẫn
Theo báo cáo tại Phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, với những nỗ lực đồng bộ, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong phát triển lĩnh vực bán dẫn.
Ngày 4/8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn chủ trì Phiên họp thứ 2 của Ban Chỉ đạo để đánh giá tình hình triển khai Kết luận của Ban Chỉ đạo tại Phiên họp lần thứ nhất, đồng thời đề ra các nhiệm vụ thúc đẩy phát triển ngành bán dẫn thời gian tới.
Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong phát triển lĩnh vực bán dẫn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tại phiên họp, các báo cáo cho thấy các nhiệm vụ theo Quyết định, Kết luận của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn đã được bộ, ngành, địa phương triển khai, hoàn thành theo tiến độ.
Cụ thể, đến nay, đã hoàn thành 10/38 nhiệm vụ theo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn. Đã hoàn thành 9/34 nhiệm vụ theo Chương trình Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn. Có 8/37 nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành theo Kết luận tại Phiên họp thứ nhất của Ban Chỉ đạo.
Thể chế, cơ chế, chính sách về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn được tập trung hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu phát triển. Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét, thông qua 03 luật, 02 nghị quyết có liên quan để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 182/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 quy định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ Hỗ trợ đầu tư, trong đó có những chính sách ưu tiên cho doanh nghiệp công nghiệp công nghệ cao nói chung và công nghiệp bán dẫn nói riêng.
Nguồn nhân lực đang được phát triển theo hướng bảo đảm tới năm 2030 có ít nhất 50.000 kỹ sư về bán dẫn.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh báo cáo tại Phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về nhân lực, Việt Nam hiện có 7.000 kỹ sư thiết kế vi mạch, 6.000 kỹ sư và 10.000 kỹ thuật viên làm đóng gói, kiểm thử, sản xuất thiết bị, cùng hơn 100 chuyên gia Việt trên toàn cầu kết nối qua Mạng lưới Đổi mới sáng tạo bán dẫn.
Về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đã ban hành Chuẩn chương trình đào tạo về vi mạch bán dẫn, 166 cơ sở giáo dục đại học có các chuyên ngành đào tạo bán dẫn; có trên 6.300 sinh viên đại học đang theo học đúng ngành bán dẫn và hơn 12.000 sinh viên đại học theo học ngành gần; gần 20 cơ sở giáo dục có mô hình liên kết 03 Nhà (nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp) trong đào tạo bán dẫn.
Về phát triển hạ tầng, Tập đoàn CT Group đã khởi công mở rộng nhà máy chip do người Việt sở hữu và vận hành, đặt mục tiêu sản xuất 100 triệu chip/năm vào năm 2027. Hệ sinh thái R&D và hệ thống phòng sạch chuẩn quốc tế đang được xây dựng và mở rộng tại các thành phố lớn, như SHTP Labs tại Khu Công nghệ cao TPHCM (vốn đầu tư 300 tỷ đồng), phòng thí nghiệm tại Đại học Quốc gia Hà Nội (5 triệu USD).
Về thu hút FDI và phát triển doanh nghiệp trong nước, Việt Nam hiện có khoảng 170 dự án FDI trong lĩnh vực bán dẫn và công nghệ cao, tổng vốn đăng ký gần 11,6 tỷ USD, trong đó có các dự án quy mô lớn như Intel (4,1 tỷ USD), Amkor (1,6 tỷ USD) và Hana Micron (673 triệu USD).
Trong lĩnh vực thiết kế chip, đã có gần 50 tập đoàn nước ngoài (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…) và hơn 10 doanh nghiệp trong nước (Viettel, FPT, CMC…). Trong lĩnh vực đóng gói, kiểm thử, đã có 14 doanh nghiệp nước ngoài và 01 doanh nghiệp trong nước. Trong lĩnh vực phụ trợ cho công nghiệp bán dẫn, đã có 15 doanh nghiệp nước ngoài.
Về hợp tác quốc tế, Việt Nam được chọn là 1 trong khoảng 10 quốc gia, nền kinh tế được hợp tác với Hiệp hội bán dẫn toàn cầu để tổ chức chuỗi sự kiện bán dẫn lớn nhất thế giới (SEMICON). Các cơ sở đào tạo trong nước đã chủ động mở rộng hợp tác với các cơ sở đào tạo nước ngoài nhằm đẩy mạnh hiệu quả nghiên cứu, đào tạo, tăng cường trao đổi, học tập.
Dù vậy, ngành này còn đối mặt nhiều thách thức như nhu cầu về vốn đầu tư cho lĩnh vực bán dẫn là rất lớn (trung bình 10 – 20 tỷ USD/dự án), các cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù để hỗ trợ đầu tư, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia lĩnh vực này mới được ban hành và cần thời gian để phát huy hiệu quả.
Cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu phát triển, đào tạo, ươm tạo cũng như phục vụ sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn chưa đáp ứng yêu cầu.