'Cởi trói' quỹ phát triển khoa học công nghệ
PGS.TS Vũ Tuấn Hưng - Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) chia sẻ với Báo Giáo dục và Thời đại xung quanh cơ chế vận hành và triển khai hiệu quả quỹ phát triển khoa học công nghệ.
Theo đó, quỹ cần thay đổi cơ chế tài trợ từ xin - cho sang đặt hàng, quản lý bằng kết quả thay vì thủ tục… nhằm tạo điều kiện tối đa giúp nhà khoa học tự do sáng tạo.
Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TPHCM. Ảnh: Phúc Uyên
Nhận diện “điểm nghẽn”
Thưa ông, quỹ khoa học công nghệ đóng vai trò như thế nào trong phát triển tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia?
- Trong hệ sinh thái khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, quỹ khoa học công nghệ đóng vai trò như “nguồn năng lượng vận hành trí tuệ”, giúp nuôi dưỡng những ý tưởng sáng tạo, giải phóng tiềm năng nghiên cứu và thúc đẩy ứng dụng vào thực tiễn.
Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách thể chế về khoa học công nghệ theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW, việc cải tổ, phát triển và tối ưu hóa các quỹ khoa học công nghệ được đặt ra như một giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang lan rộng, không chỉ biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống, có ý nghĩa lớn cho sự phát triển không chỉ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo mà còn là kim chỉ nam, bệ phóng cho sự phát triển hùng cường của Việt Nam một cách nhanh và bền vững.
Một điểm quan trọng là việc tổ chức bộ máy khoa học và công nghệ theo hướng hiệu năng cao, hiệu lực thực thi mạnh mẽ và hiệu quả rõ rệt không còn là lựa chọn, mà là một yêu cầu tất yếu của thời đại. Sau nhiều năm vận hành với những tồn tại về cơ chế, phân cấp, phối hợp và đánh giá kết quả, hệ thống khoa học công nghệ của Việt Nam đang đứng trước một cuộc cách mạng tổ chức toàn diện, nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn cố hữu, đồng thời tạo nền tảng thể chế vững chắc để phát triển đột phá mới.
Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu và quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, PGS.TS Vũ Tuấn Hưng cho rằng, để thúc đẩy hiệu quả và tính khả thi của Nghị quyết 57 trong thực tiễn, cần một “cuộc cách mạng” trong tư duy thiết kế các quỹ khoa học và công nghệ của Việt Nam theo hướng đa chiều, đa tầng và hiệu quả. Chỉ khi đó, các quỹ khoa học và công nghệ mới thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sáng tạo và gia tăng hiệu quả đầu ra. |
- Vậy với những điểm nghẽn của quỹ phát triển khoa học công nghệ cần được nhìn nhận và tháo gỡ ra sao?
- Hiện nay, nhiều quỹ khoa học công nghệ vẫn đang hoạt động chủ yếu theo cơ chế nặng tính cấp phát hành chính, đặt nặng quy trình và thủ tục hơn là khuyến khích kết quả. Điều này dẫn đến tình trạng “an toàn, ít rủi ro nhưng kém đột phá” trong đầu tư cho nghiên cứu và gây kìm hãm sự sáng tạo.
Tôi cho rằng, quỹ khoa học công nghệ cần chuyển đổi từ công cụ cấp phát nguồn lực sang công cụ tạo động lực, khai phóng sáng tạo. Cụ thể, cần chuyển đổi theo hướng tạo động lực sáng tạo thực chất. Động lực sáng tạo thể hiện qua việc Nhà nước chấp nhận rủi ro cho hoạt động sáng tạo với cơ chế có kiểm soát, khuyến khích nghiên cứu tiên phong, mạo hiểm nhưng có tiềm năng tạo ra đột phá. Việc này có ý nghĩa lớn với sáng tạo trí tuệ và đặc biệt sáng tạo trí tuệ ở tầm cao gắn với các sáng chế, phát kiến lớn.
Bên cạnh đó, cần ưu tiên tài trợ cho ý tưởng mới, hướng tới giải pháp cho các vấn đề lớn của đất nước: Kinh tế xanh, chuyển đổi năng lượng, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), y sinh học, công nghệ bán dẫn… Các quỹ sẽ vận hành trên cơ sở thúc đẩy tài trợ theo cơ chế cạnh tranh, minh bạch, không bình quân hoặc dàn trải để tạo ra các sáng tạo trí tuệ đủ tầm tương xứng với sự đầu tư đủ lớn, phù hợp và khả thi khi triển khai.
PGS.TS Vũ Tuấn Hưng. Ảnh: Phúc Uyên
- Cơ chế chấp nhận rủi ro được coi là “mở đường” cho nhà khoa học tự do nghiên cứu. Vậy Nhà nước đánh giá tính hiệu quả của một đề tài khoa học dựa trên yếu tố nào?
- Đó là thay đổi tư duy tài trợ nghiên cứu với việc trọng thưởng kết quả đầu ra. Đây là một trong những điểm đột phá trong tư duy tài trợ khoa học của thế giới hiện đại là chuyển từ tài trợ theo đầu vào vốn là kinh phí, số người tham gia, ngày công… sang trọng thưởng đầu ra là chất lượng, tác động, ứng dụng.
Việt Nam cần áp dụng để tăng tính khả thi, hiệu quả thực sự của các nghiên cứu, từ đó cổ vũ cho các sáng tạo vô giới hạn nhằm thúc đẩy sự phát triển. Để thực hiện mục tiêu này, cần có cơ chế để gắn tài trợ nghiên cứu với kết quả cụ thể như bằng sáng chế, công bố quốc tế, sản phẩm công nghệ, giải pháp ứng dụng thực tiễn. Đặc biệt các sáng tạo trí tuệ đủ lớn để lan tỏa, đóng góp thúc đẩy sự ứng dụng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương.
Để tạo động lực cho nhà nghiên cứu, cần thiết kế quỹ có cơ chế thưởng lớn cho các nghiên cứu có tác động cao, đặc biệt là những nghiên cứu chuyển giao được cho doanh nghiệp, cho xã hội hoặc có đóng góp chính sách thúc đẩy quản trị và phát triển đất nước.
Cơ chế quản trị quỹ trên cơ sở thiết lập các cơ chế hậu kiểm linh hoạt, đánh giá hiệu quả sử dụng kinh phí không chỉ qua hồ sơ, mà dựa trên giá trị thực tế mang lại. Các quỹ khoa học công nghệ cần có cơ chế “kéo” thay vì “đẩy”.
Nghĩa là thay vì chỉ đi tìm đề tài để tài trợ, hãy xây dựng các “đặt hàng” chiến lược từ Nhà nước và doanh nghiệp. Từ đó thu hút các nhóm nghiên cứu mạnh thực hiện với cam kết rõ ràng về kết quả xứng tầm với kinh phí, tài chính đầu tư tương xứng.
Nghiên cứu viên thực hiện thí nghiệm tại Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TPHCM. Ảnh: Phúc Uyên
Đa dạng nguồn lực
- Ông vừa chia sẻ đến vấn đề trọng thưởng cho nhà khoa học. Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước luôn có giới hạn. Vậy làm thế nào để nhà khoa học nhận được những nguồn tài trợ đủ lớn cho những dự án nghiên cứu tầm cỡ?
- Giải pháp cho vấn đề này là Việt Nam cần phát triển hệ thống quỹ khoa học công nghệ đa tầng, đa dạng nguồn lực. Các quỹ Nhà nước như Nafosted, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia… cần tiếp tục giữ vai trò tài trợ cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, và công nghệ quốc gia.
Ngoài ra, cần thiết kế các quỹ theo đặc thù từng lĩnh vực, ngành nghề chuyên sâu và giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho một số bộ, ngành, cơ quan, tổ chức khoa học và công nghệ hàng đầu quốc gia. Điều này tạo thế chủ động đồng thời hậu kiểm và có thước đo hiệu quả cụ thể tạo sức ép hiệu quả đối với đầu tư của quốc gia cho phát triển.
Ngoài quỹ Nhà nước cần có quỹ tư nhân và doanh nghiệp theo hướng khuyến khích các tập đoàn lớn đầu tư vào R&D, thành lập quỹ khoa học công nghệ nội bộ hoặc hợp tác công - tư (PPP) để phát huy mọi nguồn lực hiệu quả cho sự phát triển. Quỹ mạo hiểm khoa học (venture science fund) cần được phát triển nhằm tài trợ cho các dự án có tính rủi ro cao nhưng có tiềm năng đột phá lớn tạo đà phát triển nhanh cho quốc gia, doanh nghiệp Việt Nam.
Không những thế, cần có các quỹ tài trợ theo nhiệm vụ quốc gia, vùng, địa phương giúp chủ động trong chiến lược khoa học công nghệ gắn với đặc thù phát triển nhằm liên kết tạo mạng lưới khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trên nền tảng nguồn lực tài chính đủ lớn để tạo đà phát triển các trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo xứng tầm và tạo sự cạnh tranh thúc đẩy phát triển các địa phương trên nền tảng sáng tạo trí tuệ, kinh tế tri thức.
Mô hình vận hành quỹ cũng cần linh hoạt, có ban điều hành chuyên nghiệp, độc lập, phi hành chính, đánh giá theo hiệu quả thực tế chứ không dựa trên hình thức. Xóa bỏ mọi cơ chế hành chính hóa, quy trình hóa hoạt động đầu tư, quản lý khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
- Với các kết quả nghiên cứu từ tài trợ của quỹ khoa học công nghệ, làm thế nào để những sản phẩm này ra được thị trường, thưa ông?
- Cần có cơ chế gắn kết chặt chẽ giữa quỹ khoa học và công nghệ và thị trường đổi mới sáng tạo. Thực tế cho thấy, muốn khoa học và công nghệ thực sự mang lại giá trị cho nền kinh tế, các quỹ cần được thiết kế như cầu nối giữa nghiên cứu và thị trường. Để cụ thể hóa mục tiêu này, quỹ cần thực hiện một số cơ chế tài trợ cho các dự án khởi nghiệp công nghệ, spin-off từ trường đại học, viện nghiên cứu tạo đà về nguồn lực thuận lợi khả thi để hiện thực hóa.
Quỹ phát triển khoa học công nghệ cần đồng hành cùng doanh nghiệp trong quá trình thử nghiệm, hoàn thiện công nghệ, sản phẩm mẫu. Hỗ trợ nhà khoa học trong bảo hộ, thương mại hóa tài sản trí tuệ, kết nối nhà đầu tư và thị trường, tạo giá trị thiết thực qua hiệu quả từ đó khuyến khích, cổ vũ sáng tạo trí tuệ và hiệu quả đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Quỹ phát triển khoa học công nghệ đóng vai trò là đòn bẩy thúc đẩy kết nối hài hòa và liên kết mọi nguồn lực của Nhà nước và doanh nghiệp trong nước và quốc tế vì một mục tiêu phát triển chung dựa trên nguyên tắc lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ để thu hút và nhân đôi nguồn lực, cùng nhau phát triển.
Với phương pháp linh hoạt và sáng tạo tạo thể chế biến Việt Nam trở thành nơi có hệ sinh thái thuận lợi cho các sáng tạo trí tuệ, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của khu vực và thế giới, từ đó thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam một cách nhanh, bền vững.
Khi quỹ khoa học công nghệ thực sự đóng vai trò “trọng tài” tài chính sáng tạo, các nhà khoa học sẽ có thêm không gian để thử nghiệm, các tổ chức nghiên cứu sẽ chủ động hơn trong phát triển và kết nối, giúp Việt Nam phát triển trong kỷ nguyên mới.
- Trân trọng cảm ơn ông!
Thành lập năm 2008, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) có chức năng tài trợ, hỗ trợ cho các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, hoạt động nâng cao năng lực và các nhiệm vụ khoa học đột xuất, tiềm năng lớn sử dụng ngân sách do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Cơ cấu phân bổ kinh phí của quỹ trong giai đoạn 2014 về trước được cấp tối đa 300 tỷ đồng mỗi năm. Sau năm 2014 quỹ được cấp tối đa 500 tỷ đồng mỗi năm. Giai đoạn hiện nay quỹ được cấp thực tế khoảng 300 tỷ đồng. Sau 15 năm, Quỹ Nafosted đã tài trợ hơn 4.000 đề tài nghiên cứu của 20.000 nhà khoa học và 300 tổ chức trên cả nước. Trung bình một đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản được cấp kinh phí 950 triệu đồng. |