Đào tạo kép và theo đơn đặt hàng: Lời giải cho bài toán nguồn nhân lực
Trong bối cảnh thị trường lao động đang khát nhân lực chất lượng cao, mô hình đào tạo kép và đào tạo theo đơn đặt hàng nổi lên như một hướng đi
- VinFast đào tạo hơn 3.000 kỹ thuật viên ô tô, xe máy điện, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
- Giáo dục đại học: Yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng nguồn nhần lực, hướng đến trung tâm tài chính quốc tế
- Chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực STEM là yêu cầu chiến lược
Đây là bước tiến quan trọng nhằm nâng tầm kỹ năng cho lực lượng lao động tương lai, mang lại lợi ích “ba bên cùng thắng” cho nhà trường, doanh nghiệp và người học.

Một buổi thực hành của học viên Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành.
Nỗi lo thực tế
Đào tạo kép (Co-op) là mô hình hợp tác tích hợp và liên tục, trong đó nhà trường và doanh nghiệp cùng tham gia từ khâu xây dựng chương trình, tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực hành đến đánh giá đầu ra.
Sinh viên không chỉ “đi thực tập” vài tháng cuối khóa mà được luân phiên giữa học lý thuyết tại trường và làm việc thực tế tại doanh nghiệp trong suốt quá trình học. Mô hình này đã chứng minh hiệu quả vượt trội tại nhiều quốc gia như Canada, nơi tỷ lệ sinh viên Co-op có việc làm sau tốt nghiệp đạt 95-98%.
ThS Nguyễn Văn Minh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Mở TPHCM, cho rằng mô hình Co-op và đào tạo theo đơn đặt hàng chính là mục tiêu cốt lõi để gắn kết nhà trường - doanh nghiệp - xã hội, qua đó nâng cao năng lực nghề nghiệp thực sự của sinh viên.
Tại Việt Nam, Trường Đại học Trà Vinh là một trong những đơn vị tiên phong khi triển khai Co-op từ năm 2007 với Tập đoàn Mỹ Lan (chuyển giao từ Đại học Concordia, Canada). Gần đây, Khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Mở TPHCM cũng áp dụng từ năm 2020, cho phép sinh viên tham gia Co-op ngay từ năm thứ hai. Điểm nổi bật là học kỳ Co-op được công nhận đồng thời là học kỳ thực tập và khóa luận tốt nghiệp, giúp sinh viên rút ngắn thời gian mà vẫn bảo đảm chất lượng.
Đối với đào tạo theo đơn đặt hàng, mô hình này thể hiện tính linh hoạt cao, đáp ứng đúng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp hoặc địa phương. Bên “đặt hàng” sẽ yêu cầu nhà trường đào tạo số lượng nhân sự cụ thể theo đúng ngành nghề, kỹ năng và tiêu chuẩn đầu ra. Chương trình có thể được thiết kế riêng, ngắn hạn hoặc dài hạn, với kinh phí thường do doanh nghiệp chi trả. Mô hình này phổ biến ở các trường nghề, nơi doanh nghiệp “đo ni đóng giày” cho lứa nhân sự tương lai của mình.
Là phụ huynh có con trai chuẩn bị chọn ngành học, ông Trần Văn Hải (47 tuổi, phường Sài Gòn, TPHCM) chia sẻ: “Nghe nói học theo mô hình kép, các cháu sẽ được đi làm sớm, có lương, gia đình cũng đỡ gánh nặng. Nhưng chúng tôi lo chương trình học dồn nén, con không đủ sức khỏe. Liệu doanh nghiệp có thật sự tham gia giảng dạy hay chỉ xem các cháu như nhân công thời vụ để làm việc vặt? Tôi mong nhà trường có cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm quyền lợi học tập của con”.
Cùng tâm trạng lo lắng, em N.T.H., sinh viên năm 3 ngành Quản trị Kinh doanh tại một trường đại học ở TPHCM, cho biết bản thân hứng thú với chương trình đào tạo kép vì được làm việc thực tế. “Nhưng em và nhiều bạn cũng sợ không cân bằng nổi giữa lịch học ở trường và lịch làm ở công ty, nhất là vào mùa thi. Chúng em cũng lo bị xem là nhân công giá rẻ, làm các công việc không đúng chuyên môn. Rất cần sự bảo đảm rõ ràng từ phía nhà trường”, H. bộc bạch.
Những lo ngại của phụ huynh và sinh viên hoàn toàn có cơ sở và đó cũng chính là thách thức lớn mà mô hình này đang đối mặt. Thực tế “thừa lý thuyết, thiếu thực hành” vẫn là bài toán nan giải của thị trường lao động. Sinh viên ra trường thường mất nhiều tháng để doanh nghiệp đào tạo lại, gây lãng phí thời gian và chi phí xã hội.

ThS Nguyễn Văn Minh và sinh viên Khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại học Mở TPHCM tham gia Co-op tại Tập đoàn Mỹ Lan.
Tháo gỡ điểm nghẽn
Theo ông Mai Hoàng Lộc - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành, điểm chung của 2 mô hình đào tạo kép và đào tạo theo đơn đặt hàng là đưa doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo, trở thành “người thầy thứ hai” của sinh viên. Nhờ đó, người học không chỉ vững tay nghề mà còn hình thành tác phong công nghiệp.
Doanh nghiệp xem đây là “quy trình thử việc tự nhiên”, giúp tiết kiệm chi phí tuyển dụng, trong khi nhà trường cập nhật được chương trình đào tạo, tăng tỷ lệ sinh viên có việc làm. Thực tế cho thấy nhiều sinh viên được tuyển dụng chính thức ngay sau đợt Co-op, khi còn chưa nhận bằng.
“Tuy nhiên, để mô hình này phát triển bền vững, còn nhiều khó khăn cần được giải quyết đồng bộ. Sự đồng bộ giữa chương trình giảng dạy và quy trình sản xuất thực tế vẫn còn khoảng cách”, ông Lộc nhận định.
Một trong những rào cản lớn hiện nay là thiếu hành lang pháp lý rõ ràng. Theo ông Lộc, “cơ chế phối hợp hiện nay vẫn chủ yếu dựa trên thiện chí, chưa có khung pháp lý đủ mạnh để ràng buộc trách nhiệm đôi bên.
Theo ông Minh, Việt Nam đang thiếu quy trình cụ thể về hợp đồng đào tạo ba bên (trường - doanh nghiệp - sinh viên), cùng các quy định về bảo hiểm, an toàn lao động, cơ chế công nhận tín chỉ thực hành tại doanh nghiệp. “Làm sao để quy đổi giờ làm việc tại nhà máy thành số tín chỉ tương đương? Ai sẽ đánh giá, theo tiêu chí nào, đó là những câu hỏi cần được quy định hóa”.
Bên cạnh đó là tâm lý “ngại đầu tư” của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp e ngại tốn thời gian, chi phí quản lý và chưa thấy rõ lợi ích lâu dài. ThS Minh gọi đây là tâm lý xem đào tạo là “chi phí” (cost) thay vì “đầu tư chiến lược” (investment). Để tháo gỡ, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cụ thể như giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia tích cực.
Ngoài ra, vẫn còn “độ vênh” giữa năng lực của nhà trường và yêu cầu thực tế. Không phải cơ sở nào cũng đủ điều kiện triển khai; nhiều trường thiếu bộ phận hỗ trợ Co-op chuyên trách. Vì vậy, cần xây dựng “khung năng lực mới”, yêu cầu giảng viên có thời gian làm việc thực tế tại doanh nghiệp và thu hút nhiều hơn các chuyên gia doanh nghiệp tham gia giảng dạy.
Theo ThS Minh, để mô hình đào tạo kép và đào tạo theo đơn đặt hàng phát triển bền vững, cần có sự phối hợp đồng bộ của bốn bên: Nhà nước, Nhà trường, Doanh nghiệp và Người học. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và ban hành các chính sách ưu đãi rõ ràng, nhất quán nhằm khuyến khích các bên tham gia.
Nhà trường cần chủ động và linh hoạt trong thiết kế chương trình đào tạo, đồng thời xây dựng bộ phận kết nối doanh nghiệp chuyên nghiệp để gắn kết chặt chẽ hơn giữa lý thuyết và thực tiễn. Doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, coi đào tạo là một khoản đầu tư chiến lược lâu dài, cùng nhà trường tham gia xây dựng chương trình và tạo môi trường thực tập chất lượng cho sinh viên.
Cuối cùng, người học cần phát huy tinh thần chủ động, nâng cao ý thức trách nhiệm trong quá trình học tập và tích cực phản hồi để góp phần cải tiến, hoàn thiện chương trình đào tạo.
|
Theo ThS Nguyễn Văn Minh, trong tương lai, những mô hình này sẽ phát triển thành “Hệ sinh thái Học tập Tích hợp Thực tiễn Mạng lưới” (Networked Work-Integrated Learning Ecosystem). Đây không chỉ là sự hợp tác song phương, mà là hệ sinh thái đa chiều, kết nối nhiều trường đại học, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, startup trong và ngoài nước, hướng tới mô hình “University 4.0” - nơi học tập, nghiên cứu và thực tiễn được tích hợp chặt chẽ trong cùng một mạng lưới đổi mới sáng tạo. |
