Điện gió ngoài khơi – Động lực mới cho ngành dầu khí Việt Nam phát triển bền vững

16:17, 30/08/2024

Trong bối cảnh ngành năng lượng đang trải qua những thay đổi mang tính bước ngoặt (xu thế chuyển dịch năng lượng không thể đảo ngược, giảm phát thải, phát triển kinh tế xanh) đã đặt ra nhiều yêu cầu cấp thiết cho hoạt động của ngành dầu khí Việt Nam nói chung, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) nói riêng.

Lãnh đạo Petrovietnam khảo sát dự án điện gió ngoài khơi tại Na Uy

Để tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của ngành dầu khí, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW ngày 24/4/2024, trong đó có định hướng, chủ trương cho phép Petrovietnam tham gia chuỗi giá trị năng lượng mới, năng lượng tái tạo (NLTT), đặc biệt là phát triển các dự án điện gió ngoài khơi (ĐGNK).

Xu thế không thể đảo ngược

Trước những yêu cầu cấp bách về chống biến đổi khí hậu và cam kết đạt Net-zero của các quốc gia và các tập đoàn lớn, thế giới đang ghi nhận sự dịch chuyển mạnh mẽ sang phát triển NLTT để thay thế dần nguồn năng lượng hóa thạch. Trong xu thế đó, các tập đoàn dầu khí lớn đã và đang tiếp tục chi hàng chục tỷ USD vào chương trình phát triển nguồn NLTT, giảm dần danh mục đầu tư các dự án năng lượng hóa thạch.

Công trường thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại cảng PTSC

ĐGNK nổi lên như một trong những lĩnh vực có tiềm năng phát triển lớn nhất. Hiện nay, các nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực ĐGNK hầu hết là các tập đoàn dầu khí lớn, như Equinor, Shell, Repsol, Total, BP, Chevron, CNOC… Trong đó, có những công ty, như Orsted (Đan Mạch), đã chuyển hoàn toàn sang các dự án NLTT. Orsted hiện đã lắp đặt khoảng 9.000 MW ĐGNK và đặt mục tiêu đạt 50.000 MW công suất lắp đặt vào năm 2030. Equinor (Na Uy) cũng giảm dần tỉ trọng dầu khí và tăng dần tỉ trọng NLTT. Hiện Equinor có gần 12.000 MW ĐGNK đang phát triển, trong đó một số dự án đã được đưa vào vận hành. Tại Đông Nam Á, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Malaysia (Petronas) đã lập công ty NLTT Gentari và mua 29,4% cổ phần dự án ĐGNK Hải Long tại Đài Loan (Trung Quốc).

Có thể thấy được rằng, chuyển dịch năng lượng, trong đó ĐGNK đóng vai trò then chốt, là xu hướng tất yếu không thể đảo ngược trên toàn cầu. Quá trình chuyển đổi này đã và đang diễn ra vô cùng nhanh và mạnh mẽ, bất cứ tập đoàn năng lượng/quốc gia nào chậm chân sẽ bị bỏ lại phía sau. Việt Nam với độ mở kinh tế, hội nhập toàn cầu cao, đã đặt các mục tiêu và xây dựng kế hoạch để phát triển ngành công nghiệp ĐGNK. Theo Quy hoạch điện VIII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2023, đến năm 2030, công suất ĐGNK phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 MW; quy mô có thể tăng thêm trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý. Định hướng đến năm 2050, tổng công suất ĐGNK đạt 70.000 - 91.500 MW. 

Việc đặt ra các mục tiêu tham vọng về phát triển ngành công nghiệp ĐGNK mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho Việt Nam. Việc phát triển ĐGNK góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, giảm nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch, đồng thời tạo ra nhiều việc làm mới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế biển cũng như phát triển hạ tầng công nghiệp năng lượng, góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng ở Việt Nam.

Việt Nam với độ mở kinh tế, hội nhập toàn cầu cao, đã đặt các mục tiêu và xây dựng kế hoạch để phát triển ngành công nghiệp ĐGNK

Nền tảng và những bước đi vững chắc

Thực tế cho thấy, ngành dầu khí và ĐGNK có tính tương đồng rất cao, đặc biệt ở các khâu khảo sát, đánh giá, phát triển dự án, vận hành khai thác, bảo dưỡng sửa chữa và tháo dỡ...; đều có yêu cầu về các công tác hậu cần, dịch vụ hỗ trợ như bãi chế tạo, căn cứ cảng, trung tâm vận hành, bảo dưỡng, tàu dịch vụ…; đều khai thác tài nguyên xa bờ, có liên quan mật thiết đến an ninh, chủ quyền biển đảo, vùng đặc quyền kinh tế.

Để có thể phát triển ĐGNK với quy mô lớn, các tập đoàn dầu khí đa quốc gia đóng vai trò rất quan trọng. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), ngành công nghiệp dầu khí với kinh nghiệm triển khai các dự án ngoài khơi sẽ góp phần chia sẻ chuỗi cung ứng và công nghệ, sự tham gia của các tập đoàn dầu khí sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc biến ĐGNK sớm trở thành một ngành công nghiệp lớn.

Theo đánh giá của TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, những kinh nghiệm trong hoạt động thăm dò, khai thác, thiết kế, thi công chế tạo các công trình biển, dịch vụ ngoài khơi, cơ sở vật chất, nguồn lực con người, những thông tin, hiểu biết về khí tượng, thủy văn, địa chất, hóa học biển… là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong ngành dầu khí tham gia vào lĩnh vực NLTT ngoài khơi. Việc này cũng góp phần tối ưu đầu tư, tránh lãng phí nguồn lực quốc gia, gia tăng hiệu quả, giảm giá thành sản xuất.

Còn theo TS. Ngô Đức Lâm - Chuyên gia năng lượng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương), ở Việt Nam, các doanh nghiệp có khả năng tham gia vào các dự án ĐGNK phải là những tập đoàn, tổng công ty lớn, có kinh nghiệm và tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Hiện nay có Petrovietnam và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là đủ khả năng thực hiện thí điểm phát triển các dự án ĐGNK. Petrovietnam là doanh nghiệp Nhà nước có tiềm lực lớn, uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là dầu khí ngoài khơi; có công nghệ, khả năng thu xếp vốn thuận lợi hơn so với các doanh nghiệp khác. Đặc thù của Petrovietnam là hoạt động trong lĩnh vực khai thác dầu khí với địa điểm hoạt động trên biển là chính. Petrovietnam và các đơn vị thành viên được cho là có lợi thế nhất tại Việt Nam khi thực hiện các công trình trên biển từ nhiều khía cạnh, như điều tra số liệu, quan hệ quốc tế, nhân lực làm ngoài biển, chế tạo, vận hành và cả an ninh - quốc phòng.

Petrovietnam có nhiều điểm mạnh khi tham gia chuyển dịch năng lượng nói chung và đặc biệt là ĐGNK

Với sứ mệnh tiên phong trong lĩnh vực năng lượng, ngay từ năm 2019, Petrovietnam và một số đơn vị thành viên đã tập trung đánh giá, nghiên cứu vấn đề dịch chuyển năng lượng để điều chỉnh, bắt kịp các xu hướng, tận dụng tối đa thế mạnh. Trong đó, định hướng xu hướng dịch chuyển sang năng lượng xanh, sạch thông qua nâng cao tỉ trọng khí, sản xuất H2 và phát triển ĐGNK.

"Petrovietnam đang nỗ lực phát huy tất cả các lợi thế sẵn có để tham gia chuỗi cung ứng và phát triển các dự án ĐGNK tại Việt Nam, nâng cao tỉ lệ nội địa hóa thiết bị, giảm giá thành sản xuất điện nhằm tạo tiền đề phát triển năng lượng hydro trong tương lai", TS Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐTV Petrovietnam khẳng định.

Cùng với lịch sử phát triển ngành dầu khí Việt Nam, Petrovietnam đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, một đội ngũ nhân lực gần 60.000 người lao động chất lượng cao có thể làm chủ đầu tư, tổng thầu EPCI, nhà thầu cung cấp các dịch vụ kỹ thuật chất lượng cao, phục vụ các dự án ngoài khơi. 

Một số điểm mạnh của Petrovietnam khi tham gia chuyển dịch năng lượng nói chung và đặc biệt là ĐGNK nói riêng: Thứ nhất Petrovietnam là doanh nghiệp duy nhất ở Việt Nam có các dữ liệu địa chất đáy biển quốc gia được thu thập và lưu trữ trong quá trình khảo sát, tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Petrovietnam có năng lực cần thiết để cung cấp các dịch vụ khảo sát (khảo sát đáy biển, khảo sát kỹ thuật vật lý…) là các hạng mục công việc thực hiện thường xuyên trong hoạt động dầu khí và nghiên cứu tiền khả thi dự án ĐGNK. Trên thực tế, với nguồn dữ liệu, kiến thức về môi trường biển tích lũy từ quá trình nghiên cứu tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã chủ động thực hiện các nghiên cứu và hợp tác với các đối tác quốc tế để đánh giá các điều kiện địa chất, môi trường, hải văn của đáy biển, nghiên cứu ứng dụng AI tiên tiến để phân tích tài liệu địa chấn có độ phân giải cao và tích hợp các dữ liệu địa chất, địa kỹ thuật thành mô hình nền tích hợp làm cơ sở cho việc thiết kế nền móng, lựa chọn vị trí tối ưu để đặt các turbine ĐGNK cũng như tuyến cáp ngầm.

Thứ hai, trong giai đoạn xây dựng, lắp đặt, Petrovietnam với đội ngũ thiết kế dồi dào, chuyên nghiệp được đào tạo bài bản thuộc các lĩnh vực kết cấu công trình, điện… được trang bị các phần mềm chuyên dụng có bản quyền, Petrovietnam đã và đang thực hiện toàn bộ các giai đoạn thiết kế từ công tác soạn thảo phương án, đến thiết kế cơ sở, thiết kế chi tiết, thiết kế thi công cho các công trình khai thác trên biển và hoàn toàn có thể đảm nhận các hạng mục thiết kế cho các dự án ĐGNK.

Thứ ba, trong giai đoạn vận hành và bảo dưỡng (O&M), Petrovietnam có thế mạnh về cơ sở vật chất, thiết bị, nhân lực và bề dày kinh nghiệm gần 40 năm trong vận hành, bảo dưỡng các công trình điện, cũng như dầu khí biển như cơ sở cảng dịch vụ dầu khí, đội ngũ tàu hỗ trợ vận hành trên biển, cơ sở sửa chữa bảo dưỡng trên bờ và nhân lực chất lượng cao đã phục vụ O&M cho các công trình dầu khí có tính chất tương đương ĐGNK. Petrovietnam sở hữu cơ sở hạ tầng, trang thiết bị gần như hoàn thiện để phục vụ ngành công nghiệp ĐGNK với các cảng và bãi chế tạo quy mô lớn như cảng Sao Mai – Bến Đình, Vietsovpetro, PTSC M&C, PVShipyard, Dung Quất, Nghi Sơn, Đình Vũ; các đơn vị của Petrovietnam như: Tổng Công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí (PTSC), Liên doanh Vietsovpetro (VSP), Tổng Công ty cổ phần Vận tải Dầu khí (PVTrans)... hiện đang sở hữu, quản lý đội tàu dịch vụ gần 100 chiếc, đa dạng về công suất và chủng loại… được vận hành hoàn toàn bởi đội ngũ thuyền viên Việt Nam có năng lực, giàu kinh nghiệm có thể đáp ứng tốt các dự án ĐGNK.

Petrovietnam còn có năng lực tài chính mạnh, quản trị nhiều dự án có số vốn lớn, có sự liên kết tương hỗ trong chuỗi giá trị dầu khí, có quan hệ hợp tác rộng rãi với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực năng lượng, có nhiều cơ hội hợp tác, tiếp thu tri thức, công nghệ về chuyển dịch năng lượng tiên tiến trên thế giới.

Trong thời gian qua, các đơn vị của Petrovietnam như: Vietsovpetro, PTSC... đã ký các biên bản ghi nhớ, biên bản bảo mật, hợp tác song phương, hợp đồng khảo sát/cung cấp dịch vụ với các chủ đầu tư ĐGNK trên thế giới. Petrovietnam đã nhận được rất nhiều đề xuất từ các tập đoàn lớn trên thế giới như Equinor, Orsted, CIP, Macquarie… để liên kết phát triển các dự án ĐGNK tại Việt Nam. Petrovietnam hiện nay đã ký kết biên bản ghi nhớ với Equinor và CIP (Đan Mạch) để nghiên cứu cơ hội phát triển ĐGNK và các nguồn năng lượng sạch khác tại Việt Nam.

Năng lực của Petrovietnam trong lĩnh vực ĐGNK đã được chứng minh trong những năm gần đây, khi PTSC – đơn vị thành viên của Tập đoàn, đã chủ động tham gia cung cấp dịch vụ điện gió, ĐGNK cho nhiều nhà thầu trong và ngoài nước và đã đạt được những thành công hiện hữu.

3 năm trở lại đây, PTSC đã nhanh chóng tham gia vào chuỗi giá trị ĐGNK. Đến nay, doanh nghiệp trúng thầu hơn 10 dự án ĐGNK với tổng công suất phát điện là 5,2GW, tổng giá trị hợp đồng hơn 1,2 tỷ USD, với việc cung cấp hầu hết các công đoạn dịch vụ cho các dự án ĐGNK, bao gồm công tác khảo sát, thiết kế, mua sắm, thi công chế tạo, vận chuyển, lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa. 100% là các dự án xuất khẩu, tạo công ăn việc làm trực tiếp cho hơn 4.000 người lao động.

Để chuẩn bị nguồn lực sẵn sàng cho cuộc đua NLTT ngoài khơi, Petrovietnam đã và đang chủ động xây dựng chuỗi cung ứng nội địa bao gồm các đơn vị thành viên có nhiều tiềm năng, như: PTSC, Vietsovpetro, VPI, (Tổng Công ty Tư vấn thiết kế Dầu khí – CTCP (PVE), Tổng Công ty cổ phần Dịch vụ tổng hợp Dầu khí (PETROSETCO), Tổng Công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PVD), Công ty cổ phần Kết cấu kim loại và Lắp máy Dầu khí (PVC-MS), PV Shipyard… Các đơn vị chủ lực của Petrovietnam về thiết kế, chế tạo, xây lắp và vận hành các công trình dầu khí biển như PTSC, Vietsovpetro, (Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí (PETROCONs) đã được Tập đoàn giao nhiệm vụ nghiên cứu, thành lập tổ hợp phát triển chuỗi giá trị NLTT; với năng lực, kinh nghiệm, cơ sở hạ tầng sẵn có, tăng cường khả năng hợp tác, phát huy năng lực của nhau, phối hợp tìm kiếm cơ hội tham gia vào các dự án NLTT ngoài khơi trong và ngoài nước.

Không gian phát triển mới cho Petrovietnam

Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Thủ tướng Chính phủ cũng đã thể hiện quyết tâm chính trị trước toàn thế giới thông qua tuyên bố Việt Nam sẽ nỗ lực đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Để thực hiện cam kết này, đặt ra nhiều yêu cầu về chuyển đổi mô hình phát triển hướng tới kinh tế xanh, tuần hoàn, bền vững.

Để khai thác tối đa hiệu quả tiềm năng, kinh nghiệm, nền tảng hiện có của tập đoàn năng lượng hàng đầu quốc gia và nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cũng như thúc đẩy phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng xanh, ngày 24/4/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tình hình thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và một số định hướng cho giai đoạn mới.

Với hơn 3.200 km bờ biển và tổng diện tích biển khoảng 1 triệu km2, Việt Nam có tiềm năng phát triển NLTT ngoài khơi lớn nhất khu vực Đông Nam Á, lên tới 599 GW. Khi nguồn năng lượng mới này được khai thác hiệu quả, Việt Nam có thể kết hợp các mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội, an ninh năng lượng, an ninh quốc phòng, chủ quyền biển đảo, công nghiệp hóa với phát thải carbon thấp hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Kết luận số 76-KL/TW đã mở ra con đường lớn giúp Petrovietnam có thể chủ động xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển ngành công nghiệp ĐGNK, góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành nước làm chủ công nghệ, có chuỗi cung ứng hoàn chỉnh để cạnh tranh trên trường quốc tế, nắm bắt tốt các cơ hội "vàng", vươn lên phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực năng lượng sạch.

TS. Nguyễn Đức Hiển – Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương khẳng định: Kết luận số 76-KL/TW mở ra một không gian phát triển mới cho Petrovietnam thông qua việc định hướng những chủ trương khai thác các điều kiện, tiềm năng của ngành trong phát triển về lĩnh vực NLTT, năng lượng mới. Đối với Petrovietnam, Kết luận số 76-KL/TW có định hướng phát triển Tập đoàn trở thành một tập đoàn công nghiệp - năng lượng quốc gia, song song với việc gắn phát triển các lĩnh vực truyền thống của ngành dầu khí, nhưng đồng thời cũng xác định vai trò chủ lực tiên phong của Tập đoàn trong phát triển các lĩnh vực về năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Điển hình là phát triển điện gió ngoài khơi, điện gió ven biển, các hoạt động về phát triển lĩnh vực hydrogen, amoniac, tham gia vào chuỗi nhập khẩu cung ứng LNG, cũng như đồng thời xác định vai trò của Petrovietnam trong phát triển lĩnh vực về công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng, đặc biệt là NLTT và năng lượng mới.