Hà Nội: Phát triển chăn nuôi công nghệ cao giai đoạn 2021 - 2030
Là Thủ Đô song Hà Nội lại có nhiều lợi thế phát triển chăn nuôi, đặc biệt những năm qua với sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, Thành phố đã có nhiều chính sách rất phù hợp đề tạo đà cho chăn nuôi phát triển.
Kết quả phát triển chăn nuôi công nghệ cao giai đoạn 2016 - 2020
Trong giai đoạn 2016 - 2020 thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại ngành Nông nghiệp Thủ đô, mặc dù gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, khó lường luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch, đặc biệt là Dịch tả lợn Châu Phi năm 2019 đã xảy ra trên diện rộng; Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến kinh tế xã hội của Thành phố song ngành Nông nghiệp Thủ đô giai đoạn 2021 - 2020 vẫn đạt tăng trưởng khá 2,53% đảm bảo mục tiêu đề ra (từ 2,5-3,0%); riêng chăn nuôi, thủy sản đạt 58,11%.
Một số kết quả nổi bật về chăn nuôi đó là đàn gia súc tăng cả về số lượng, năng xuất chất lượng, đến nay đàn trâu khoảng 27 nghìn con, đàn bò đạt 130 ngàn con (bò sữa 14 ngàn con); đàn lợn 1,4 triệu con; đàn gia cầm khoảng 37 đến 39 triệu con.
Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại ước đạt khoảng 381 nghìn tấn, trong đó thịt trâu 1,73 nghìn tấn, tăng 15% so với năm 2015; thịt bò 10,6 nghìn tấn, tăng 12,8% so với năm 2015; thịt lợn 210,8 nghìn tấn, giảm 31,4% so với năm 2015; thịt gia cầm 155,7 nghìn tấn, tăng 89% so với năm 2015. Còn về sản lượng trứng các loại ước đạt 2,38 tỷ quả, tăng 105,7% so với năm 2015.
Chăn nuôi lợn ở Quốc Oai.
Về kết quả phát triển chăn nuôi công nghệ cao trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016 - 2020 có chuyển biến mạnh đặc biệt về cơ chế chính sách, đã ban hành các chính sách về phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố trong đó có chính sách phát tireenr chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh.
Điểm nhấn là Nghị quyết số 10/2018/NQ- HĐND ngày 05/12/2018 của HĐND Thành phố về một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; xây dựng hạ tầng nông thôn, Nghị quyết này là tổng hợp cửa các chính sách của Thành phố trước đây đã ban hành. Đây chính là những tiền đề phát triển nông nghiệp nói chung, phát triển chăn nuôi công nghệ cao nói riêng.
Trong giai đoạn này các trang trại chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao đều được xây dựng xa khu dân cư đến nay đã có 557 trang trại sử dụng công nghệ chuồng kín; 26 trang trại sử dụng công nghệ dây chuyền cho ăn uống tự động; 200 trang trại sử dụng công nghệ bán tự động; 35 trang trại sử dụng công nghệ nuôi trên sàn nhựa; 03 trang trại được trang bị máy vắt sữa; 27 trang trại nuôi công nghệ chuồng lồng.
Về thức ăn chăn nuôi, các trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm 100% chăn nuôi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, có 27 trang trại sử dụng dây chuyền cho ăn tự động, uống nước tự động. Đối với các trang trại chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trâu, dê có 69 trang trại sử dụng thức ăn bổ sung, thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn hỗn hợp (TMR), nhiều trang trại sử dụng dây chuyền cho ăn tự động, bán tự động.
Về ứng dụng công nghệ cao sản xuất giống vật nuôi: đến nay 100% lợn giống tại các trang trại là giống lợn lai ngoại (Landrace, Yorshire, Duroc được thụ tinh nhân tạo các đực giống cao sản Duroc, Pietrin…); 100% trang trại gia cầm nuôi các giống lai có năng suất cao (như Isa, Sasso, Brown, Ai Cập, Ross 308, Hubbard lai gà Mía…); các trang trại bò sữa, bò thịt sử dụng 100% giống được lai tạo với các giống lai cao sản (như lai Sind, Brahman, Droughtmaster, BBB, Angus...); tỷ lệ thụ tinh nhân tạo bò sữa đã đạt 100 %, bò thịt đạt trên 80 %; một số trại đã áp dụng sử dụng tinh phân ly giới tính giống HF thuần chủng, cấy truyền phôi, có 02 cơ sở sản xuất tinh đông lạnh trâu, bò.
Trong quản lý dịch bệnh các trang trại chăn nuôi có quy trình chăn nuôi và thực hiện tiêm phòng vaccin định kỳ theo quy định, định kỳ khử trùng chuồng trại, lấy mẫu kiểm tra kháng thể. Có 498 trang trại được công nhận cơ sở an toàn dịch bệnh, chăn nuôi an toàn sinh học; có 42 trang trại chăn nuôi được chứng nhận thực hành chăn nuôi tốt VietGap.
Về xử lý môi trường có 857 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm được ứng dụng mô hình chăn nuôi công nghệ cao trong xử lý môi trường bằng công nghệ các công nghệ tiên tiến (như biogas, hệ thống xử lý nước thải, ủ chua, ủ men vi sinh, trộn men vào thức ăn nước uống, sử dụng đệm lót sinh học...); trong liên kết sản xuất chuỗi đã hoàn thiện 31 chuỗi tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi giết mổ tiêu thụ sản phẩm (điển hình ở Quốc Oai 03 chuỗi; Chương Mỹ 05 chuỗi, Thanh Oai 01 chuỗi; Thường Tín 07 chuỗi ...).
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được trong viêc ứng dụng công nghệ cao với ngành chăn nuôi trên địa bàn Thành phố cũng gặp không ít khó khăn hạn chế đó là chưa hình thành được vùng sản xuất chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao theo tiêu chí vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao của Thành phố. Việc nhân rộng các mô hình ứng dụng công nghệ cao còn rất hạn chế.
Chăn nuôi công nghệ cao còn gặp khó khăn về vốn sử dụng công nghệ cao lớn hơn nhiều so với sản xuất truyền thống; quỹ đất hạn chế, chi phí giải phóng mặt bằng, đầu tư hạ tầng ban đầu cho các dự án công nghệ cao ở Hà Nội cao hơn so với các tỉnh, thành phố lân cận; mặt khác thời hạn cho thuê đất hiện nay ngắn (5 năm), sau đó phải đấu giá lại mới được thuê tiếp nên người dân, doanh nghiệp chưa yên tâm đầu tư lâu dài.
Khi xây dựng trang trại công nghệ cao còn thiếu những công nghệ cao mang tính tiên tiến hàng đầu chưa tạo ra được sự đột biến mạnh mẽ về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất như ở các nước tiến tiến. Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn hạn hẹp, không ổn định, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế sản xuất một số sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư.
Một số chính sách ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ nên khó thu hút được các nguồn lực xã hội, doanh nghiệp đầu tư cho chăn nuôi nhất là về xây dựng cơ sở giết mổ, chế biến sâu sản phẩm động vật công nghệ cao.
Bên cạnh đó tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, quỹ đất giành cho phát triển chăn nuôi ngày càng bị thu hẹp dẫn đến phát triển sản xuất manh mún, thiếu bền vững, ô nhiễm, hạ tầng phục vụ chăn nuôi (như giao thông, điện, hệ thống xử lý môi trường...) thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu về chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao. Về nhân lực đội ngũ cán bộ kỹ thuật có khả năng và tiếp cận công nghệ cao để ứng dụng, chuyển giao còn thiếu.
Định hướng, giải pháp phát triển chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021 - 2030
Mục tiêu chính là thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và đẩy mạnh ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại nhằm tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng đàn gia súc gia cầm. Cụ thể, tăng tỷ lệ thụ tinh nhân tạo lợn đạt 85- 90%; về gia cầm tỷ lệ trứng có phôi đạt trên 85%, tỷ lệ trứng ấp nở đạt trên 90%.
Sử dụng các trang thiết bị hiện đại, hệ thống chuồng kín với trang trại lợn đạt trên 50% trở lên, gia cầm đạt trên 70% trở lên; 100% trang trại chăn nuôi lớn sử dụng hệ thống chăn nuôi chuồng kín, tự động hóa dây chuyền trong chế biến thức ăn, cho ăn uống tự động, kiểm soát dịch bệnh, xử lý môi trường chăn nuôi; 100 % các trang trại chăn nuôi quy mô lớn được ứng dụng công nghệ cao sản xuất theo chuỗi có thương hiệu sản phẩm, được đánh giá đủ điều kiện chăn nuôi, an toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm; 100% cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm công nghiệp, bán công nghiệp được ứng dụng công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Giết mổ gia cẩm ở Gia Lâm.
Trong đó, tập chung áp dụng các chính sách phát triển công nghệ cao hiện hành hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao như sử dụng chuồng kín, tự động hóa ở các khâu chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý dịch bệnh, xử lý môi trường chăn nuôi. Chú trọng công nghệ gen, công nghệ sinh học, công nghệ di truyền học đầu tư vào cơ sở sản xuất giống nhập nội bổ sung các giống cao sản, cải tạo giống, phục tráng các nguồn gen bản địa tốt cung cấp vật liệu di truyền để nhân giống, lai tạo giống (như bò Vàng Việt Nam lai với các giống bò cao sản, gà Mía, gà Ri, gà Lạc Thủy, vịt Cỏ, lợn Móng Cái, lợn Ỉ...) phù hợp với nhu cầu sản xuất, tiêu dùng Thủ đô và xuất khẩu; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi hữu cơ và các mô hình kinh tế tuần hoàn.
Nâng cao năng lực quản lý, sản xuất, chất lượng thức ăn từ các nguyên liệu đầu vào, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất thức ăn áp dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học, sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế kháng sinh, hóa chất làm nguyên liệu sản xuất thức ăn, sử dụng nguồn nguyên liệu đơn trong nước, các sản phẩm phụ trong nông nghiệp tại địa phương để tổng hợp chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm. Tập trung xây dựng vùng an toàn dịch, cơ sở an toàn dịch cho các trang trại chăn nuôi công nghệ cao. Sử dụng chế phẩm sinh học tỏng phòng chống dịch bệnh, đảm bảo an toàn thực phẩm. Tổ chức nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho hệ thống thú y đến cơ sở để giám sát chặt chẽ diễn biến dịch bệnh, nhất là các địch bệnh nguy hiêm, kịp thời ngăn chặn không để dịch lớn xảy ra trên diện rộng.
Về đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì theo hướng đào tạo nước ngoài và đào tạo trong nước cho hệ thống cán bộ quản lý, các chủ doanh nghiệp, trang trại đáp ứng công nghệ tiến tiên tiến, hiện đại trên Thế giới. Về đào tạo ở nước ngoài đối với cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cấp Thành phố, chủ trang trại lớn. Nội dung tập trung về xây dựng trang trại, sản xuất, chế biến, phòng chống dịch bệnh, địa điểm đào tạo tại các nước có ngành chăn nuôi tiên tiến (Pháp, Hà Lan, Israel, Nhật Bản, Đài Loan...).
Đào tạo ở trong nước cho các đối tượng là cán bộ quản lý cấp Thành phố, cấp huyện, chủ trang trại tại các viện, trường, các trung tâm đào tạo nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời đào tạo nghề chăn nuôi công nghệ cao cho các đối tượng là lao động trong các doanh nghiệp, chủ hộ chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao trong độ tuổi lao động theo quy định. Tăng cường tập huấn chuyên môn kỹ thuật ứng dụng công nghệ cao cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, người lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao.
Chăn nuôi lợn sinh học tại Sóc Sơn.
Đặc biệt phải chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ cơ khí hóa sản xuất thiết bị chuồng nuôi, thiết bị chế biến, giết mổ, máy chế biến thức ăn, chế biến sản phẩm gia súc, gia cầm. Tăng cường tổ chức cho các đối tượng tham gia chợ, hội chợ, triển lãm công nghiệ cao trong chăn nuôi (các hội thi về bò, lợn, gia cầm, các phiên đấu giá gia súc, gia cầm...) để các tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn kỹ thuật, đầu tư, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và các dịch vụ khác nhằm thúc đẩy hoạt động công nghệ cao, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm công nghệ cao trong chăn nuôi.
Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng và Internet, từng bước hình thành website hoặc chuyên trang trên website của Thành phố về công nghệ cao trong chăn nuôi tại Hà Nội để mọi người dân có thể tiếp cận được về các công nghệ cao. Thông tin kịp thời kết quả ứng dụng công nghệ cao, các mô hình phát triển công nghệ cao và các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Thành phố. Hỗ trợ để cơ bản các hợp tác xã, doanh nghiệp, cơ sở vùng chăn nuôi tập trung đủ điều kiện được áp dụng mô hình nông trại điện tử, tham gia hệ thống quản lý chất lượng và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Tuyên truyền sâu rộng để người chăn nuôi chủ động tham gia phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt việc khai báo chăn nuôi theo đúng quy định cửa Pháp luật.
Với các giải pháp trên được quan tâm của các cấp các ngành, sự đồng thuận của người dân, chắc chắn chăn nuôi công nghệ cao trên địa bàn Thành phố tiếp tục có chuyển biến mạnh mẽ trong thời gian tới.
PV