Hoạt động cải tiến chất lượng sau kiểm định góp phần nâng cao chất lượng cơ sở giáo dục, chương trình đào tạo
Cải tiến chất lượng (CTCL) sau kiểm định là yêu cầu pháp lý và yếu tố quyết định uy tín, thương hiệu, phát triển bền vững của cơ sở giáo dục (CSGD). Hoạt động này cần bám sát khuyến nghị đánh giá ngoài, gắn với chiến lược phát triển, bảo đảm khả thi, minh bạch và liên tục.
Thực tiễn cho thấy đã có tiến bộ về nhận thức, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo (CTĐT), nhưng vẫn tồn tại hạn chế do tư duy đối phó, thiếu kế hoạch dài hạn, phối hợp chưa hiệu quả và nguồn lực hạn chế. Giải pháp trọng tâm là lập kế hoạch cải tiến toàn diện, phát triển văn hóa chất lượng, huy động nguồn lực, ứng dụng chuyển đổi số, tăng hợp tác và giám sát nội bộ.
1. Khái niệm và yêu cầu pháp lý của hoạt động CTCL sau kiểm định
1.1. Khái niệm “CTCL” và “cải tiến sau kiểm định” trong giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục, CTCL được hiểu là quá trình thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu suất và mức độ đáp ứng mục tiêu của CSGD, CTĐT, dựa trên cơ sở phân tích kết quả đánh giá chất lượng và yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn. CTCL không chỉ tập trung vào khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra, mà còn bao hàm việc chủ động đổi mới, sáng tạo để đạt chuẩn cao hơn so với mức tối thiểu quy định .
Cải tiến sau kiểm định là một nội dung trọng tâm của CTCL, được xác định là chuỗi hoạt động mà CSGD hoặc CTĐT triển khai nhằm thực hiện các khuyến nghị của tổ chức kiểm định độc lập, hướng đến việc duy trì và nâng cao chất lượng sau khi đã được công nhận đạt chuẩn kiểm định. Đây là giai đoạn then chốt bảo đảm rằng kiểm định chất lượng không chỉ là một thủ tục đánh giá định kỳ, mà trở thành động lực thúc đẩy cải tiến bền vững.
Bản chất của cải tiến sau kiểm định chính là xây dựng kế hoạch hành động cụ thể theo khuyến nghị của hội đồng kiểm định. Ưu tiên khắc phục điểm yếu và phát triển điểm mạnh đã được ghi nhận. Theo dõi, đánh giá thường xuyên và điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết.
1.2. Yêu cầu pháp lý
Ở Việt Nam, các yêu cầu pháp lý về CTCL và cải tiến sau kiểm định được quy định trong hệ thống pháp luật về giáo dục, gồm:
Luật Giáo dục năm 2019: quy định CSGD có trách nhiệm bảo đảm chất lượng giáo dục; thực hiện tự đánh giá và chịu sự đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; đồng thời phải thường xuyên cải tiến, nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội .
Luật Giáo dục đại học năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2018: xác định trách nhiệm của CSGD đại học trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch CTCL sau kiểm định; coi đây là tiêu chí quan trọng trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và xếp hạng CSGD đại học.
Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng CTĐT các trình độ của giáo dục đại học: trong đó tiêu chuẩn về “CTCL” yêu cầu mỗi CTĐT phải có cơ chế, kế hoạch và minh chứng cho các hoạt động cải tiến sau kiểm định, bảo đảm sự phù hợp với chiến lược phát triển và nhu cầu xã hội.
Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về kiểm định chất lượng CSGD đại học: yêu cầu các CSGD đại học, sau khi được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng, phải thực hiện các khuyến nghị của hội đồng kiểm định, lập báo cáo kết quả cải tiến gửi cơ quan quản lý và tổ chức kiểm định định kỳ; coi đây là điều kiện bắt buộc để duy trì hiệu lực công nhận đạt chuẩn.
Thông tư số 13/2023/TT BGDĐT quy định việc giám sát, đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm, yếu tố then chốt bảo đảm tính khách quan và hiệu quả của kiểm định.
Thông tư số 04/2025/TT BGDĐT quy định mới nhất về kiểm định chất lượng CTĐT đại học, gồm bộ tiêu chuẩn, quy trình kiểm định, chu kỳ 5 năm và cơ chế CTCL trong vòng 24 tháng nếu chương trình được công nhận ở mức “đạt có điều kiện” Giáo dục Việt Nam.
Như vậy, cải tiến sau kiểm định không chỉ là yêu cầu chuyên môn mà còn là nghĩa vụ pháp lý của các CSGD, gắn liền với trách nhiệm giải trình trước người học, xã hội và cơ quan quản lý nhà nước. Việc thực hiện tốt cải tiến sau kiểm định sẽ tạo ra vòng tròn khép kín giữa đánh giá - cải tiến - tái đánh giá, bảo đảm cho chất lượng giáo dục được duy trì và nâng cao một cách bền vững.
2. Thực trạng hoạt động CTCL sau kiểm định trong thời gian qua
2.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, nhận thức về văn hóa chất lượng trong cán bộ, giảng viên được nâng cao. Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi hoàn thành các chu kỳ kiểm định chất lượng CSGD và CTĐT, nhiều trường đại học, cao đẳng đã đạt được bước tiến quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về văn hóa chất lượng. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên đã hình thành tư duy coi đảm bảo và CTCL không chỉ là nhiệm vụ thời điểm kiểm định mà là quá trình thường xuyên, liên tục. Điều này thể hiện qua việc các đơn vị trong trường chủ động xây dựng kế hoạch cải tiến hằng năm, tổ chức hội thảo nội bộ, tập huấn chuyên môn và áp dụng các mô hình quản lý chất lượng tiên tiến như PDCA (Plan - Do - Check - Act) trong quản trị đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo được cải thiện. Hoạt động cải tiến sau kiểm định đã trở thành động lực để các CSGD đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ dạy - học. Nhiều trường đã triển khai đồng bộ việc cải tạo giảng đường, phòng thí nghiệm, phòng thực hành; tăng cường hệ thống thiết bị hỗ trợ giảng dạy trực tuyến và học liệu số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục . Một số CSGD đại học đã tận dụng các nguồn vốn từ ngân sách, xã hội hóa và hợp tác quốc tế để xây dựng các trung tâm học liệu, thư viện điện tử hiện đại, bảo đảm điều kiện thực hiện chuẩn đầu ra về năng lực tin học, ngoại ngữ và kỹ năng nghề nghiệp của người học.
Thứ ba, CTĐT phù hợp chuẩn đầu ra được điều chỉnh, cập nhật. Trên cơ sở khuyến nghị của đoàn đánh giá ngoài, nhiều CTĐT đã được rà soát, điều chỉnh và cập nhật nhằm bảo đảm tính phù hợp với chuẩn đầu ra và yêu cầu của thị trường lao động. Việc điều chỉnh này không chỉ dừng ở việc thay đổi cấu trúc học phần, mà còn bao gồm việc cập nhật nội dung, phương pháp giảng dạy, phương thức đánh giá kết quả học tập, tăng cường kỹ năng mềm và năng lực tự học cho sinh viên . Đặc biệt, các chuẩn đầu ra được công bố công khai và gắn kết chặt chẽ với Khung trình độ quốc gia Việt Nam, qua đó nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của CSGD.
2.2. Hạn chế, tồn tại
Thứ nhất, một số khuyến nghị sau kiểm định chưa được thực hiện đầy đủ. Mặc dù phần lớn các CSGD đã triển khai hoạt động CTCL sau kiểm định, nhưng vẫn còn một số khuyến nghị của đoàn đánh giá ngoài chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc các khuyến nghị này đòi hỏi thay đổi mang tính hệ thống, cần nhiều thời gian và nguồn lực, trong khi kế hoạch cải tiến của một số trường mới chỉ dừng lại ở mức khắc phục các vấn đề ngắn hạn, dễ thực hiện . Báo cáo tổng kết công tác kiểm định của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2024 cho thấy, vẫn có CSGD chưa lập được báo cáo hoàn tất khuyến nghị trong thời hạn quy định 24 tháng kể từ khi công bố kết quả kiểm định.
Thứ hai, thiếu cơ chế giám sát, đánh giá định kỳ. Một số CSGD chưa xây dựng hoặc chưa vận hành cơ chế giám sát, đánh giá định kỳ đối với hoạt động cải tiến sau kiểm định. Việc theo dõi tiến độ thường chỉ được thực hiện khi đến kỳ tái kiểm định, dẫn tới tình trạng “dồn việc” vào giai đoạn cuối, làm giảm hiệu quả cải tiến liên tục. Ngoài ra, hệ thống minh chứng phục vụ giám sát chưa được số hóa đầy đủ, gây khó khăn cho việc kiểm tra chéo, tổng hợp báo cáo và đánh giá khách quan.
Thứ ba, nguồn lực (tài chính, nhân lực) hạn chế. Hạn chế về nguồn lực tài chính và nhân lực vẫn là rào cản lớn đối với việc thực hiện CTCL. Ở nhiều CSGD, đặc biệt là các trường ở vùng khó khăn, kinh phí dành cho hoạt động cải tiến sau kiểm định còn phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước và chưa huy động được hiệu quả nguồn lực xã hội hóa . Về nhân lực, một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa được đào tạo bài bản về quản trị chất lượng giáo dục, dẫn đến việc xây dựng và triển khai kế hoạch cải tiến chưa đạt chuẩn yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tư duy đối phó khi kiểm định. Một số CSGD vẫn tồn tại tư duy đối phó khi tham gia kiểm định chất lượng, coi đây là hoạt động mang tính thủ tục để đạt chứng nhận, thay vì coi kiểm định là cơ hội cải tiến thực chất . Điều này dẫn đến việc chỉ tập trung chuẩn bị hồ sơ, minh chứng cho giai đoạn đánh giá ngoài, nhưng sau khi đạt chuẩn, các hoạt động cải tiến bị gián đoạn hoặc triển khai ở mức tối thiểu, đi ngược với tinh thần của Luật Giáo dục và các quy định hiện hành về đảm bảo, CTCL liên tục.
Thứ hai, thiếu kế hoạch cải tiến tổng thể và dài hạn. Nhiều CSGD chưa xây dựng được kế hoạch CTCL mang tính chiến lược, gắn với mục tiêu phát triển dài hạn của nhà trường. Các kế hoạch hiện có thường mang tính ngắn hạn, sự vụ, chưa xác định rõ mục tiêu ưu tiên, nguồn lực, thời gian và chỉ số đánh giá kết quả . Sự thiếu định hướng này khiến hoạt động cải tiến khó duy trì liên tục, dẫn đến nguy cơ tái diễn những hạn chế đã được chỉ ra trong các kỳ kiểm định trước.
Thứ ba, hạn chế trong công tác phối hợp giữa các đơn vị. Hoạt động cải tiến đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị trong trường, nhưng thực tế, nhiều CSGD chưa có cơ chế phân công trách nhiệm, chia sẻ thông tin và giám sát rõ ràng. Điều này dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ, làm giảm hiệu quả cải tiến.
2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nguồn lực tài chính và nhân lực hạn chế. Đối với nhiều CSGD, đặc biệt là các trường ở khu vực khó khăn, kinh phí cải tiến phụ thuộc phần lớn vào ngân sách nhà nước, trong khi khả năng huy động nguồn lực xã hội hóa còn hạn chế. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa được đào tạo bài bản về quản trị chất lượng giáo dục, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai các hoạt động cải tiến theo đúng chuẩn
Thứ hai, yêu cầu của khuyến nghị kiểm định có tính hệ thống, khó thực hiện ngay. Một số khuyến nghị của đoàn đánh giá ngoài mang tính chiến lược, đòi hỏi thời gian dài và thay đổi toàn diện về tổ chức, CTĐT, cơ sở vật chất. Điều này khiến nhiều trường gặp khó khăn trong việc thực hiện đầy đủ trong thời hạn 24 tháng theo quy định.
Thứ ba, thiếu cơ chế giám sát và hỗ trợ đồng bộ từ bên ngoài. Hệ thống giám sát việc thực hiện cải tiến sau kiểm định ở cấp quản lý nhà nước hiện mới dừng ở mức yêu cầu báo cáo định kỳ, chưa có cơ chế hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn chuyên sâu cho các CSGD trong quá trình khắc phục hạn chế.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động CTCL sau kiểm định góp phần nâng cao chất lượng CSGD, CTĐT
3.1. Xây dựng kế hoạch cải tiến toàn diện, gắn với chiến lược phát triển
Thứ nhất, dựa trên phân tích kết quả đánh giá ngoài và khuyến nghị của đoàn kiểm định, CSGD phải rà soát đầy đủ các khuyến nghị được nêu trong báo cáo đánh giá ngoài, phân loại theo mức độ ưu tiên (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) và tích hợp vào kế hoạch cải tiến. Điều này vừa bảo đảm tính bám sát yêu cầu pháp lý theo Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT, vừa giúp tránh bỏ sót những vấn đề cốt lõi cần khắc phục.
Thứ hai, kế hoạch cải tiến phải gắn với mục tiêu chiến lược phát triển, không thể tách rời chiến lược phát triển nhà trường đã được phê duyệt. Các mục tiêu cải tiến cần liên kết với định hướng phát triển dài hạn, như nâng cao vị thế xếp hạng, mở rộng quy mô ngành đào tạo, hoặc tăng cường hợp tác quốc tế. Luật Giáo dục đại học (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định rõ trách nhiệm của CSGD đại học trong việc bảo đảm chất lượng gắn với chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, kế hoạch cải tiến phải xác định rõ nguồn lực, lộ trình và chỉ số đánh giá kết quả; quy định cụ thể nguồn lực tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất; xác định mốc thời gian thực hiện cho từng hạng mục; và xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá kết quả (KPI) minh bạch. Đây là cơ sở để giám sát, điều chỉnh kịp thời trong quá trình thực hiện, đồng thời là căn cứ báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan.
3.2. Tăng cường cơ chế giám sát và đánh giá nội bộ sau kiểm định
Thứ nhất, thiết lập bộ tiêu chí và quy trình giám sát nội bộ thống nhất. Các tiêu chí giám sát cần được xây dựng dựa trên bộ tiêu chuẩn kiểm định hiện hành và các khuyến nghị cụ thể của đoàn đánh giá ngoài. Quy trình giám sát phải bao gồm các bước từ thu thập minh chứng, phân tích dữ liệu, đánh giá mức độ hoàn thành, đến báo cáo và kiến nghị điều chỉnh. Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT đã quy định rõ trách nhiệm của CSGD trong việc theo dõi, đánh giá tiến độ thực hiện khuyến nghị và báo cáo định kỳ với cơ quan quản lý.
Thứ hai, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử về CTCL cho phép các đơn vị cập nhật thường xuyên tình hình thực hiện, tạo điều kiện cho lãnh đạo nhà trường và các bên liên quan dễ dàng truy cập, phân tích và đưa ra quyết định. Ứng dụng công nghệ cũng giúp chuẩn hóa và minh bạch hóa thông tin, giảm tình trạng thiếu đồng bộ hoặc sai lệch số liệu.
Thứ ba, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Kết quả giám sát và đánh giá nội bộ cần được công bố rộng rãi trong phạm vi trường, đồng thời gửi báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức kiểm định khi có yêu cầu. Việc công khai thông tin không chỉ đáp ứng yêu cầu giải trình theo Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học, mà còn góp phần xây dựng văn hóa chất lượng, khuyến khích tinh thần cải tiến liên tục trong toàn trường.
Thứ tư, kết hợp giám sát nội bộ với kiểm tra chéo và đánh giá ngoài định kỳ. Bên cạnh giám sát nội bộ, CSGD nên tổ chức các đợt kiểm tra chéo giữa các khoa, phòng ban, hoặc mời chuyên gia bên ngoài tham gia đánh giá. Điều này giúp bổ sung góc nhìn khách quan, phát hiện kịp thời các vấn đề tiềm ẩn và đề xuất giải pháp khắc phục hiệu quả hơn.
3.3. Phát triển văn hóa chất lượng như một giá trị cốt lõi trong toàn trường
Thứ nhất, đưa văn hóa chất lượng vào tầm nhìn, sứ mệnh và chiến lược phát triển của nhà trường. Chiến lược phát triển dài hạn cần xác định rõ văn hóa chất lượng là giá trị cốt lõi, định hướng cho mọi hoạt động quản trị và đào tạo. Điều này phù hợp với Luật Giáo dục đại học (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định CSGD phải bảo đảm chất lượng gắn với sứ mệnh và mục tiêu phát triển.
Thứ hai, tạo môi trường khuyến khích cải tiến liên tục. Nhà trường cần xây dựng các cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, ghi nhận và khen thưởng những tập thể, cá nhân có đóng góp tích cực trong CTCL. Môi trường này phải nuôi dưỡng tinh thần dám thay đổi, dám chịu trách nhiệm và hướng tới chuẩn mực cao hơn.
Thứ ba, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa chất lượng cho cán bộ, giảng viên và người học. Các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, hội thảo nội bộ, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm về đảm bảo chất lượng cần được tổ chức thường xuyên. Đặc biệt, cần giúp người học nhận thức được vai trò của mình trong việc duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ tư, gắn văn hóa chất lượng với trách nhiệm giải trình và minh bạch thông tin. Một nền văn hóa chất lượng vững mạnh phải đi đôi với việc công khai minh bạch các thông tin về chuẩn đầu ra, kết quả kiểm định, kế hoạch cải tiến và kết quả thực hiện. Đây là yếu tố giúp củng cố niềm tin của xã hội và khẳng định uy tín của nhà trường.
3.4. Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực phục vụ cải tiến
Thứ nhất, đa dạng hóa nguồn tài chính cho CTCL. Ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp, cần đẩy mạnh huy động từ các nguồn lực xã hội hóa, hợp tác công - tư, dự án tài trợ quốc tế và đóng góp của doanh nghiệp, cựu sinh viên. Việc huy động vốn phải gắn với mục tiêu cụ thể của kế hoạch cải tiến, đồng thời tuân thủ các quy định về quản lý tài chính công theo Luật Ngân sách nhà nước và Luật Giáo dục đại học.
Thứ hai, sử dụng nguồn lực tài chính minh bạch và đúng trọng tâm. Kinh phí cải tiến cần được phân bổ ưu tiên cho các hạng mục trực tiếp tác động đến chất lượng đào tạo, như nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành - thí nghiệm, phát triển học liệu số, bồi dưỡng năng lực giảng viên. Cơ chế quản lý, giám sát chi tiêu phải công khai và được kiểm toán định kỳ để bảo đảm hiệu quả sử dụng.
Thứ ba, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Nhà trường cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên về quản trị chất lượng giáo dục, phân tích dữ liệu đánh giá và thiết kế kế hoạch cải tiến. Đồng thời, cần phân công nhiệm vụ rõ ràng, gắn trách nhiệm cá nhân với kết quả thực hiện để bảo đảm tính cam kết trong triển khai.
Thứ tư, tối ưu hóa cơ sở vật chất hiện có và đầu tư có trọng điểm. Các công trình, phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện, hệ thống công nghệ thông tin cần được khai thác tối đa công suất, đồng thời có kế hoạch nâng cấp, thay thế theo tiêu chuẩn kiểm định. Việc đầu tư mới phải dựa trên đánh giá nhu cầu thực tế và dự báo xu hướng phát triển để tránh lãng phí.
3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý chất lượng
Thứ nhất, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trực tuyến tích hợp. CSGD cần triển khai các nền tảng quản lý chất lượng dựa trên công nghệ web và điện toán đám mây, tích hợp các module về tự đánh giá, theo dõi khuyến nghị sau kiểm định, quản lý minh chứng, và phân tích dữ liệu học tập. Hệ thống này phải bảo đảm khả năng liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ hai, số hóa quy trình đảm bảo và CTCL. Việc số hóa giúp giảm thiểu thủ tục giấy tờ, rút ngắn thời gian tổng hợp - xử lý thông tin, đồng thời tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất dữ liệu. Các báo cáo tự đánh giá, báo cáo giám sát cải tiến cần được lưu trữ và cập nhật trên hệ thống trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra nội bộ và đánh giá ngoài.
Thứ ba, khai thác phân tích dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI). Dữ liệu về kết quả học tập, phản hồi của người học, kết quả khảo sát nhà tuyển dụng và các chỉ số chất lượng khác cần được phân tích định kỳ để dự báo xu hướng, phát hiện sớm các vấn đề và đưa ra giải pháp cải tiến kịp thời. Việc ứng dụng AI có thể hỗ trợ phân tích chuyên sâu, tự động đề xuất các phương án tối ưu hóa CTĐT và hoạt động giảng dạy.
Thứ tư, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin trong quản lý chất lượng. Công tác quản lý chất lượng phải tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thông tin và quy định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh dữ liệu giáo dục ngày càng phong phú, đa dạng và có giá trị chiến lược.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chiến lược chuyển đổi số ngành giáo dục đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Hà Nội, 2022.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 13/2023/TT-BGDĐT ngày 26/6/2023.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo cáo tổng kết công tác kiểm định chất lượng giáo dục năm 2024, Hà Nội, 2025.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT ngày 17/02/2025.
7. Nguyễn Đức Chính, Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục: Lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
8. Quốc hội, Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012, sửa đổi, bổ sung năm 2018.
9. Quốc hội, Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019.
10. Quốc hội, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân số 24/2025/QH15 ngày 26/6/2025.
11. Phạm Xuân Thanh, “Kiểm định chất lượng giáo dục đại học - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 152/2019, tr. 12-15.
12. Phạm Xuân Thanh, “CTCL cơ sở vật chất sau kiểm định - Kinh nghiệm từ một số trường đại học”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 168/2024, tr. 22-25.
13. Phạm Xuân Thanh, “Những thách thức trong CTCL giáo dục sau kiểm định”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 170/2024, tr. 35-36.
14. Phạm Xuân Thanh, “Chiến lược đầu tư cơ sở vật chất phục vụ CTCL giáo dục”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 172/2025, tr. 30-32.
15. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 ban hành Khung trình độ quốc gia Việt Nam.
PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
TS. Lê Kiến Hưng - Báo Nhân Dân