Kết quả triển khai chuyển đổi số năm 2022
Sáng 25/12, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã chủ trì Hội nghị sơ kết 1 năm triển khai Đề án 06 và tổng kết hoạt động của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số năm 2022.
Tại Hội nghị, nhận định về kết quả chuyển đổi số năm 2022, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng cho hay, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, về Chính phủ số, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 86/193 quốc gia về chính phủ số, chính phủ điện tử. Kinh tế số đạt tốc độ tăng trưởng 28%, đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Về xã hội số, Việt Nam xếp hạng thứ 9 về lượt tải mới ứng dụng di động. 8 ứng dụng Việt Nam có trên 10 triệu người dùng thường xuyên. Việt Nam xếp hạng 25/193 quốc gia về an toàn an ninh mạng.
Về công tác xây dựng văn bản pháp luật, chính sách, tạo môi trường pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 1 Nghị quyết, 3 Nghị định, 1 Chỉ thị và 10 Quyết định. Bộ TT&TT, cơ quan thường trực của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số đã ban hành 17 văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể và 25 báo cáo chuyên đề tham khảo tuần.
Thứ trưởng Nguyễn Huy Dũng báo cáo tóm tắt kết quả triển khai chuyển đổi số năm 2022.
Về nguồn nhân lực, vì chuyển đổi số là toàn dân và toàn diện, phải huy động sự tham gia của người dân và doanh nghiệp. Toàn bộ các tỉnh thành trên toàn quốc đã triển khai gần 69.000 tổ công nghệ số cộng đồng đến tận các thôn xóm với khoảng 320.000 thành viên. Bộ TT&TT đã triển khai Nền tảng học trực tuyến mở đại trà với gần 28.000 lượt cán bộ, công chức viên chức hoàn thành khóa bồi dưỡng về chuyển đổi số, gấp 3 lần so với mục tiêu đề ra. Hơn 255.000 thành viên Tổ công nghệ số cộng đồng đã được phổ biến, tập huấn kỹ năng số theo sáng kiến của Bộ TT&TT và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Việc nâng cao nhận thức, kỹ năng về chuyển đổi số đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, các bộ ngành địa phương cần coi việc xây dựng, ban hành kế hoạch tập huấn bồi dưỡng là việc thường xuyên, liên tục. Mới có 13 Bộ, ngành và 46 tỉnh thành ban hành kế hoạch thực hiện Đề án 146.
Về an toàn an ninh mạng, Việt Nam có khả năng làm chủ 21/22 chủng loại sản phẩm phổ biến trong hệ sinh thái an toàn an ninh mạng. Tuy nhiên, an toàn thông tin mạng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Mới có 1723/3028 hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước được phê duyệt an toàn, chiếm khoảng 56%. 201/3068 hệ thống đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn theo cấp độ, chiếm 6,6%. Đây là nguy cơ mất an toàn an ninh mạng ở mức rất cao. Do đó, đề nghị các Bộ ngành địa phương khẩn trương hoàn thành phê duyệt cấp độ an toàn thông tin ngay trong quý I/2023. Bộ TT&TT sẽ có hướng dẫn và biện pháp hỗ trợ đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ ngay cả khi chưa có nguồn lực.
Toàn cảnh Hội nghị.
Về dịch vụ công trực tuyến (DVCTT), mặc dù chúng ta đã nỗ lực rất cao nhưng chất lượng của dịch vụ công trực tuyến chưa ngang bằng với các nước dẫn đầu trong khu vực. Theo đánh giá của Liên hiệp quốc về DVCTT với 5 tiêu chí, tồn tại hạn chế lớn nhất mà chúng ta cần cải thiện đó là cung cấp DVCTT toàn trình, nghĩa là người dân ngồi nhà có thể dễ dàng sử dụng dịch vụ công trực tuyến và người dân sử dụng nhiều DVCTT. Các bộ ngành địa phương cần căn cứ vào các tiêu chí này để ban hành Kế hoạch cải thiện chất lượng DVCTT. Sắp tới Bộ TT&TT sẽ ban hành tiêu chí đánh giá, thực hiện đánh giá và xếp hạng các bộ ngành địa phương về chất lượng và hiệu quả cung cấp DVCTT.
Quản lý nhà nước và quản trị quốc gia muốn hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phải dựa trên các nền tảng số. Khi đối tượng quản lý ngày càng nhiều, cơ quan quản lý nhà nước phải có công cụ giám sát, kiểm tra trực tuyến, Mới có một số ít bộ ngành địa phương đi tiên phong trong lĩnh vực này và thu được một số kết quả nhất định. Đó là Bộ Công an với Nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Bộ Tài chính với Nền tảng hóa đơn điện tử, Bộ TT&TT với Nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia, Văn phòng Chính phủ với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Thừa Thiên Huế với nền tảng Huế S, Đà Nẵng với Nền tảng công dân số.
Bộ TT&TT đề nghị năm 2023, các Bộ, ngành tập trung xác định và tổ chức triển khai các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn quốc thuộc ngành lĩnh vực của mình. Các địa phương xác định và tổ chức triển khai các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn địa phương mình. Nền tảng số sử dụng thống nhất nghĩa là đầu tư tập trung, quản lý vận hành tập trung, sử dụng phân tán. Một đầu mối đứng ra đầu tư và quản lý vận hành. Các cơ quan, tổ chức khác là người sử dụng. Các địa phương cần rà soát, đánh giá hiệu quả, tầm nhìn dài hạn trong phát triển đô thị thông minh gắn liền với phát triển đô thị.
Về kinh tế số, xã hội số, một số bộ ngành Trung ương thuộc khối kinh tế tổng hợp đã có những hành động quyết liệt, đột phá, mang lại kết quả trong phát triển kinh tế số. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử đạt 100%, tỉ lệ ngươi dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đạt 66%, tỉ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nền tảng số đạt 30,07%, tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt 7,5%. Tuy nhiên, khối kinh tế ngành lĩnh vực cần có kế hoạch hoạt động quyết liệt hơn vì dư địa phát triển còn nhiều.
Mới chỉ có 2/30 Bộ ngành và 28/63 địa phương ban hành Kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển kinh tế số, xã hội số đến năm 2025. Chuyển đổi số trong các doanh nghiệp nhà nước, ngoại trừ doanh nghiệp viễn thông, CNTT, cơ bản diễn ra còn chậm. Còn thiếu Đề án tổng thể quốc gia thúc đẩy chuyển đổi số trong tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, Đại học số triển khai còn chậm so với kế hoạch đặt ra. Y tế số có đấu hiệu chững lại sau thời gian COVID.
Thành Nam (T/h)