Thương mại hóa sáng chế ở thị trường Việt Nam còn manh mún

07:40, 23/10/2024

Để hoạt động thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam được "khởi sắc", Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cẩn cho biết nhà khoa học, nhà sáng chế cần quan tâm chất lượng đầu vào trước khi đưa vào thương mại hóa, đáp ứng được nhu cầu thị trường; hiệu lực độc quyền về sáng chế phải được bảo đảm.

Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, trong giai đoạn 10 năm (2014-2023), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích tại Việt Nam là 9,8%/năm. Các chủ thể nước ngoài có số đơn đăng ký sáng chế là 60.517 đơn, cao hơn gấp 7 lần so với chủ thể Việt Nam (7.560 đơn).

Cụ thể, năm 2014, số lượng đơn đăng ký của các chủ thể Việt Nam chỉ 487 nhưng của chủ thể nước ngoài là 3.960 đơn. Đến năm 2023, lượng đơn của chủ thể Việt Nam là 991, trong khi của chủ thể nước ngoài là 8.469 đơn.

Tuy nhiên, tổng số lượng đơn đăng ký giải pháp hữu ích trong 1 thập kỷ qua của chủ thể Việt Nam lớn gấp hơn 1,3 lần so với đơn của chủ thể nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng đơn đăng ký giải pháp hữu ích của chủ thể Việt Nam là 12%/năm, cũng cao hơn so với tốc độ tăng của chủ thể nước ngoài (9,4%).

Về đơn đăng ký chuyển giao quyền sử dụng và quyền sở hữu đã nộp giai đoạn từ 2014-2023, số đơn đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là 1.805 đơn; còn số đơn đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp là 11.757 đơn.

Thương mại hóa sáng chế ở thị trường Việt Nam còn manh mún.

Như vậy, trong 10 năm qua, có tổng số 13.350 đơn đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng và chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp.

Từ thực tế những năm qua, các chủ thể Việt Nam chủ yếu là đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu; số lượng sáng chế chỉ bằng 1/7 so với chủ thể nước ngoài. Điều đó cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mặc dù khá sôi động (thông qua việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng và nhãn hiệu) nhưng chưa có nhiều sản phẩm chứa hàm lượng trí tuệ cao, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng tạo ra công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn hạn chế…

Mới đây, tại hội thảo Giải pháp tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với kết quả nghiên cứu do Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Cần Thơ phối hợp Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) tổ chức, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cẩn, Quyền Viện trưởng Viện Khoa học sở hữu trí tuệ cũng cho biết theo thống kê của Viện Khoa học sở hữu trí tuệ từ năm 2009 - 2018, số đơn đăng ký sáng chế được cấp bằng ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 15% tổng số đơn đăng ký sáng chế, 85% đơn bị từ chối.

Nguyên nhân là do chất lượng tạo ra sáng chế chưa gắn kết được với thị trường, không đủ hấp dẫn để đối tác quan tâm đầu tư ứng dụng thực tiễn; nghiên cứu bị trùng lặp; không có tính sáng tạo, yếu tố mới nên bị từ chối bảo hộ. Đó cũng chính là rào cản khiến thương mại hóa sáng chế ở Việt Nam gặp khó khăn, manh mún. Từ năm 2019 - 2023, số lượng đơn đăng ký hợp đồng sáng chế, số lượng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng sáng chế ở Việt Nam rất ít, chỉ hơn 20 sáng chế được chuyển giao trong một năm. Chuyển nhượng sáng chế (mua bán sáng chế) từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác cũng rất ít với khoảng 100 sáng chế.

Để hoạt động thương mại hóa sáng chế được "khởi sắc", ông Nguyễn Hữu Cẩn lưu ý nhà khoa học, nhà sáng chế cần quan tâm chất lượng đầu vào trước khi đưa vào thương mại hóa, đáp ứng được nhu cầu thị trường; hiệu lực độc quyền về sáng chế phải được bảo đảm. Trong khai thác thương mại hóa sáng chế cần đánh giá đúng tiềm năng thị trường. Nhà nghiên cứu, người tạo ra sáng chế không chỉ vì đam mê mà phải đem lại hữu ích, hướng đến khách hàng, thị trường tiềm năng. Người làm ra sáng chế phải có kỹ năng tra cứu thông tin; ước định giá trị tài sản sở hữu trí tuệ (sáng chế); năng lực tìm kiếm đối tác, khách hàng sử dụng giải pháp sáng chế; phải bảo vệ được tài sản trí tuệ. "Khi nào làm được những điều đó, thương mại hóa sáng chế sẽ khởi sắc hơn", ông Nguyễn Hữu Cẩn nhận định.