Thiếu đội ngũ “tinh hoa” về công nghệ cao, Việt Nam vẫn gặp khó trong hành trình đổi mới sáng tạo

10:43, 10/09/2025

Với các trở ngại như giáo dục sau đại học và phát triển đội ngũ giảng viên còn yếu; tình trạng đầu tư cho giáo dục đại học và R&D không đầy đủ và kéo dài, ... nguồn nhân tài chủ chốt về công nghệ cao tại Việt Nam vẫn còn thiếu trầm trọng...

Ảnh minh họa.

 

Việt Nam đã đặt mục tiêu nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị vi mạch bán dẫn; trở thành một trong ba quốc gia dẫn đầu ASEAN về năng lực trí tuệ nhân tạo (AI); đồng thời phát triển kinh tế sinh học để đóng góp ít nhất 7% GDP vào năm 2045....

Những mục tiêu này không chỉ mang tính táo bạo mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược dài hạn của Chính phủ, nhằm đưa đây là một việc cần làm để thực hiện hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, với nền kinh tế dựa trên công nghệ và tri thức.

Khoảng trống về nhân tài công nghệ cao 

Việt Nam nằm tại vi trí giao thoa của vùng đất đổi mới sáng tạo có năng lực cạnh tranh vượt trội ở Đông Á - khu vực tập trung cả năm cụm khoa học công nghệ lớn nhất thế giới ở các quốc gia: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan (Trung Quốc). Sự gần kề về địa lý này sẽ giúp cho Việt Nam có thể khai thác các mạng lưới tri thức và các chuỗi giá trị trong khu vực.

Tuy nhiên, các ngành công nghiệp có hàm lượng nghiên cứu, giá trị cao hơn và các lĩnh vực dịch vụ dựa vào tri thức trong nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá là còn non trẻ.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), kim ngạch xuất khẩu điện tử tăng vọt của Việt Nam (trên 132 tỷ USD) đã đưa quốc gia trở thành một trong những trung tâm chế tạo chế biến điện tử hàng đầu thế giới, nhờ nền tảng chế tạo chế biến vững mạnh có thể thu hút thêm đầu tư về công nghệ cao. 

Song, Việt Nam vẫn chủ yếu tham gia các hoạt động thâm dụng lao động ở hạ nguồn, và chỉ cung cấp một vài dịch vụ hỗ trợ thiết kế vi mạch đơn giản. Các công đoạn tiên tiến như thiết kế vi mạch tiền kỳ (front-end), phát triển tài sản trí tuệ, chế tác tấm bán dẫn tiên tiến, chủ yếu được thực hiện ở nước ngoài.

 

Số lượng nguồn nhân lực công nghệ hiện tại của Việt Nam vẫn còn cách xa so với mục tiêu mà Việt Nam đặt ra đến năm 2030. (Nguồn: WB)

Đến năm 2024, khoảng 85% lượng hàng điện tử xuất khẩu của Việt Nam được sản xuất tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chủ yếu qua lắp ráp các linh kiện được thiết kế ở nơi khác.

Giải thích về vấn đề này, bà Trần Thị Ánh Nguyệt, Chuyên gia Giáo dục của Ngân hàng Thế giới (WB), cho rằng nền tảng về nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam hiện còn tương đối thấp, dẫn tới sản phẩm đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công nghệ cao của Việt Nam còn hạn chế. 

Năm 2023, cả nước có khoảng 80.900 nhân lực R&D, chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu trên một triệu dân vào năm 2023, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia đề ra là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian trên mỗi 10.000 dân vào năm 2030.

Tỷ lệ nhân lực về R&D tại Việt Nam trong lực lượng lao động vẫn còn thấp. Nguồn (WB)

Đặc biệt, hồ sơ xin cấp bằng sáng chế trong nước về lĩnh vực vi điện tử tại Việt Nam mới chỉ bắt đầu tăng lên trong những năm gần đây, với tốc độ tăng khoảng 28% mỗi năm từ năm 2018 đến năm 2023, nhưng với xuất phát điểm rất thấp. Trong đó, khoảng 70% số hồ sơ mới là của các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Trong khi đó, các quốc gia có thu nhập trung bình, như Malaysia và Thái Lan, mỗi nước đều nộp hàng chục hồ sơ xin cấp bằng sáng chế quốc tế về vi mạch bán dẫn trong thập kỷ qua, trong khi riêng Trung Quốc chiếm đến 55% số hồ sơ xin cấp bằng sáng chế trên toàn cầu về vi mạch bán dẫn trong giai đoạn 2021-2022. 

“Khoảng cách trên càng thể hiện rõ thách thức của Việt Nam trong công cuộc chuyển hóa kiến thức thành tài sản trí tuệ”, bà Nguyệt nhấn mạnh

Ba trụ cột giải pháp thúc đẩy phòng quay nguồn nhân tài công nghệ cao 

Theo bà Nguyệt, các rào cản chính đang cản trở “vòng quay” đổi mới sáng tạo và nhân tài của Việt Nam tăng tốc bao gồm: vòng lặp giáo dục sau đại học và phát triển đội ngũ giảng viên còn yếu;  tình trạng đầu tư cho giáo dục đại học và R&D không đầy đủ và kéo dài; liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp còn yếu; khoảng cách cơ sở hạ tầng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Vì vậy, nhằm kích hoạt nguồn nhân tài công nghệ của Việt Nam, bà Nguyệt cho rằng cần chú trọng 4 trụ cột giải pháp chính:

Thứ nhất, mở rộng và tăng cường chiều sâu của đội ngũ nhân tài công nghệ cao.

Trong đó, Việt Nam cần nhanh chóng mở rộng nguồn cung nhân tài (tăng cả quy mô lực lượng lao động kỹ năng cao hiện tại và nguồn sinh viên mới tốt nghiệp) và tăng cường chiều sâu năng lực của họ để nâng tầm trình độ kỹ năng và chuyên môn thông qua việc cung cấp các học bổng sau đại học quốc gia; tổ chức chương trình thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ toàn cầu, Chương trình đào tạo hiện đại gắn với nhu cầu doanh nghiệp

Thứ hai, xây dựng cơ sở hạ tầng R&D và thí điểm dùng chung.

Việt Nam cần đầu tư cơ sở hạ tầng dùng chung, mở quyền truy cập nhằm tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học và các doanh nghiệp khởi nghiệp được sử dụng cơ sở vật chất phòng thí nghiệm quốc gia, thay vì phải tự xây dựng riêng.

Thứ ba, thúc đẩy liên kết giữa Cơ sở giáo dục đại học - Doanh nghiệp - Chính phủ và tác động lan tỏa của FDI. 

Trụ cột này nhằm triển khai các chương trình trọng điểm nhằm phá vỡ tư duy cục bộ và thúc đẩy mô hình “vòng xoáy ba bên” hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Hiện nay, yêu cầu cấp thiết của Việt Nam là kết nối và gắn kết lợi ích của các bên để tri thức được lưu chuyển tự do và đổi mới sáng tạo được lan tỏa trong toàn bộ nền kinh tế. 

“Chính vì vậy, tác động cộng hưởng đó sẽ tạo ra nguồn cung tài năng sẵn sàng cho công việc, đẩy nhanh đổi mới sáng tạo, cải thiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tăng cường tác động lan tỏa từ đầu tư”, bà Nguyệt cho hay.