Việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa giúp minh bạch trong sản xuất và tiêu dùng

Thanh Tùng 12:00, 05/08/2020

Ngày 4/8, Hội Mã số Mã vạch Việt Nam đã tổ chức hội thảo "Áp dụng mã số, mã vạch trong truy xuất nguồn gốc và chống hàng giả". Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ đề tài cùng tên của Hội thực hiện trong năm 2020 nhằm mục tiêu ứng dụng công nghệ mã số, mã vạch để minh bạch hóa thông tin về sản phẩm, hàng hóa.

Hội thảo nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp, các tổ chức cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực truy xuất nguồn gốc, các cơ quan quản lý nhà nước giới thiệu, trao đổi kinh nghiệm và thảo luận những vấn đề liên quan đến hoạt động xây dựng và triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc qua mã số mã vạch…

Phát biểu khai mạc tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Lý- Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Mã số mã vạch Việt Nam - khẳng định, truy xuất nguồn gốc là cơ hội để doanh nghiệp thâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời là biện pháp tích cực trong công tác chống hàng giả, nâng cao vị thế của sản phẩm, hàng hóa. Đây cũng là công cụ để các cơ quan quản lý kiểm soát thông tin sản xuất, lưu thông trên thị trường…. Truy xuất nguồn gốc vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm của các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

Mã số, mã vạch được in ra để dán vào sản phẩm, hàng hóa 

Tuy nhiên, hiện hoạt động truy xuất nguồn gốc và áp dụng tem truy xuất nguồn gốc tại Việt Nam đang tồn tại một số hạn chế, bất cập. Theo đó, việc truy xuất nguồn gốc mới tập trung áp dụng ở một số sản phẩm và một số địa phương, thị trường lớn. Nhiều hệ thống truy xuất nguồn gốc hiện nay vẫn mang tính khép kín, không có khả năng mở để các bên tham gia hệ thống truy xuất nguồn gốc này có thể tham gia với hệ thống truy xuất nguồn gốc khác, do thường sử dụng các mã phân định có cấu trúc tự đặt, chỉ có giá trị phân định trong phạm vi nội bộ, mà không sử dụng các mã phân định đơn nhất toàn cầu. Việc tự đặt các mã phân định (sản phẩm, địa điểm, các bên tham gia) không đơn nhất, có thể xảy ra trường hợp trùng mã giữa các hệ thống truy xuất nguồn gốc.

Tại hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, truy xuất nguồn gốc đòi hỏi tính chuẩn hóa cao, yêu cầu các bên tham gia truy xuất nguồn gốc cần thống nhất dùng chuẩn chung. Tuy nhiên, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún gây hạn chế cho việc thống nhất giữa các bên tham gia truy xuất nguồn gốc. Thói quen và ý thức làm việc không tuân thủ quy trình, ngại ghi chép cũng là yếu tố hạn chế thành công của các doanh nghiệp Việt Nam khi xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc.

Khẳng định vai trò của mã số mã vạch trong truy xuất nguồn gốc, ông Bùi Hữu Đạo - Phó Chủ tịch Hội Mã số mã vạch Việt Nam - đây là vũ khí hữu hiệu để nâng cao sự cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, giúp doanh nghiệp dễ dàng quản lý sản phẩm, dễ dàng phân phối hàng hóa trên hệ thống siêu thị, đảm bảo uy tín cho người tiêu dùng. Đồng thời, đây là căn cước để hàng hóa hội nhập thế giới.

Việc áp dụng mã số mã vạch trong chuỗi cung ứng giúp giảm 50% đầu tư nguyên liệu thô, tăng 3,5% về độ chính xác của báo giá, giảm 21% thời gian lưu kho, giảm 42% chi phí phân phối, giảm 35% kiểm kê hàng trong trung tâm phân phối, 32% giảm việc hết hàng, mang lại sự hài lòng cho khách hàng.

Việc ứng dụng mã vạch hiện nay ở nước ta tuy có phát triển nhưng sự đồng bộ hóa trong kinh doanh, sản xuất ở các doanh nghiệp chưa cao nên chưa sử dụng hết ứng dụng của mã vạch. Việc ứng dụng công nghệ mã số mã vạch mới dừng ở việc cấp mã số doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp in ấn số mã vạch trên sản phẩm, hàng hóa để phục vụ việc bán hàng, chưa triển khai ứng dụng các mã số mã vạch trên các đơn vị giao nhận, vận chuyển, trong trao đổi dữ liệu điện tử và phân định các bên đối tác trong giao dịch sản xuất, kinh doanh.

Số lượng các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mã số mã vạch chiếm tỉ lệ thấp, số lượng hàng hóa của Việt Nam sử dụng mã số mã vạch chưa nhiều. Đáng chú ý, hoạt động mã số mã vạch chưa được quản lý thống nhất, việc làm nhái mã số mã vạch vẫn còn diễn ra dưới các hình thức như: Tự ý lấy mã số mã vạch của một doanh nghiệp khác để in lên sản phẩm của mình hay tự nghĩ ra một mã số mã vạch và in lên sản phẩm lưu hàng trên thị trường.

Ngày 19/1/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 100/QĐ-TTg phê duyệt Đề án triển khai áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc, trong đó đặt ra mục tiêu đến năm 2025 tối thiểu 30% các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sử dụng mã số, mã vạch tại Việt Nam có hệ thống truy xuất nguồn gốc áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, đảm bảo khả năng tương tác, trao đổi dữ liệu với các hệ thống truy xuất nguồn gốc của doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

Để thúc đẩy ứng dụng công nghệ mã số mã vạch trong truy xuất nguồn gốc, nhiều ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu triển khai áp dụng các công nghệ và mã tiêu chuẩn mới mà thế giới đã áp dụng như công nghệ nhận dạng bằng tần số radio trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Phổ biến áp dụng mã điện tử sản phẩm phục vụ cho công nghệ REID; phổ biến áp dụng các mã số mã vạch mới được tiêu chuẩn hóa và chấp nhận quốc tế. Bên cạnh đó, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam; cập nhật và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp sử dụng mã vạch bằng tiếng Anh và tiếng Việt.

Hàng loạt các biện pháp khả thi cũng cần sớm được triển khai như tham gia mạng đăng ký thông tin toàn cầu GS1, mạng GEPIR Global; nghiên cứu triển khai thiết lập catalog điện tử sản phẩm sử dụng mã vạch; hỗ trợ các doanh nghiệp của Việt Nam chuẩn bị điều kiện đăng ký tham gia các mạng toàn cầu. Đặc biệt, các lĩnh vực quản lý nhân sự, truy xuất nguồn gốc, trong ngành y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng rất cần được khuyến khích, tăng cường ứng dụng mã số, mã vạch.

Tổng kết hội thảo, ông Phó Đức Sơn đánh giá cao các báo cáo tham gia cùng những thảo luận tích cực của các đại biểu tham dự. Theo ông, để MSMV thực sự đem lại hiệu quả cho nền kinh tế nước nhà thì có rất nhiều việc phải làm của cả nhà nước lẫn doanh nghiệp. Bên cạnh việc Nhà nước phải hoàn thiện các văn bản pháp lý cho MSMV và TXNG, việc xây dựng kho dữ liệu chung về MSMV thống nhất với quốc tế cũng là hết sức quan trọng.

Thanh Tùng