Việt Nam đã có chiếc máy vi tính đầu tiên vào thập niên 70

08:35, 03/03/2020

Từ thập kỷ 70, Tiến sĩ Nguyễn Chí Công đã cùng đồng nghiệp làm những chiếc máy vi tính đầu tiên của Việt nam, cũng là của châu Á và trở thành Trưởng tiểu ban mạng của Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin

Sự khởi đầu từ những giúp đỡ của các chuyên gia Pháp

"Ngày đó, chúng tôi toàn là người rất trẻ, không học hàm học vị, không có vai vế trong xã hội, nhiều giáo sư tiến sĩ không bao giờ tin thời đó có thể làm được chiếc máy tính, cứ nói ra là các ông ấy bảo ‘điên rồ mơ mộng’. Rất khác với mọi người, anh Phan Đình Diệu lại tin ở chúng tôi” TS Nguyễn Chí Công chia sẻ.

Tiến sỹ Nguyễn Chí Công.

TS Nguyễn Chí Công – một trong các thành viên tham gia đề án này cho biết, tháng 11/1977, GS Phan Đình Diệu – Viện trưởng Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển khi đó đã mời được hai chuyên gia Pháp là Alain Teissonnifere và Hoàng Thành Đào sang làm việc. Ông Alain đã dành nhiều buổi thuyết trình về vi xử lý (Microprocessor), một khái niệm ngày ấy còn mới lạ đối với cả thế giới.  Ông Alain tiên đoán rằng vi xử lý sẽ là những "viên gạch thông minh" xây nên một công nghệ mới sẽ có mặt khắp nơi, thay cho các máy tính lớn (mainframes) kềnh càng. 

Ông Alain là một người đặc biệt thẳng thắn và cởi mở nhưng cũng rất khiêm tốn và giản dị, sau này trở thành Tổng Thư ký Ủy ban vì sự Hợp tác Khoa học và Kỹ thuật với Việt Nam (CCSTV). GS Phan Đình Diệu cho biết Alain mỗi tuần chỉ lao động 3 ngày cho mình, còn lại 4 ngày dành cho Việt Nam. Ông Alain đã đích thân chuẩn bị giáo trình và phải đi vòng vèo qua Mátxcơva (thủ đô Liên Xô cũ) đến Việt Nam, xa gấp đôi đường bay bây giờ, chưa kể phải bỏ ra hơn hai tháng không lương để làm việc với Viện và gom góp tiền túi mua những vật tư và tài liệu, phần lớn của Mỹ nên ngày ấy vô cùng hiếm, đắt.

Chính ông Alain năm 1976 đã từng gửi thư đến Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước để tìm cơ quan hợp tác và nhận chuyển giao công nghệ vi xử lý vào Việt Nam, sau hàng chục năm dài biểu tình chống Mỹ để cùng CCSTV có cuộc gặp lịch sử với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mở đầu hợp tác khoa học kỹ thuật Pháp - Việt. Đáp lại thư này là quyết định đồng ý hợp tác và lời mời ông Alain của GS Phan Đình Diệu, người đã được sang Pháp tiếp xúc giới tin học và trúng cử vào Quốc hội trong khi vắng mặt ...

Thời gian nghiên cứu, lắp ráp, thử nghiệm, căn chỉnh đều rất ngắn; điện thì không ổn định, có thể bị cắt bất kỳ lúc nào, chúng tôi lại chưa từng được sờ đến những chip hiện đại như thế, chỉ sợ hỏng do tĩnh điện hoặc sốc điện. Mặt khác, phải thực hiện mấy bìa RAM mới được vỏn vẹn vài kB, ngày đó chưa có RAM động mà mỗi chip RAM tĩnh chỉ chứa mấy trăm bit”, TS Nguyễn Chí Công kể lại.

Thời điểm đó, do không có bàn phím và màn hình nên nhóm phát triển phải nhập liệu từng bit bằng các công tắc Liên Xô và hiển thị bằng các diode phát quang. Hệ phát triển cũng chưa có, phải dịch thủ công chương trình điều khiển rồi nạp trực tiếp thông tin trên mấy nghìn diode mắt muỗi và điện trở. Lập trình và sửa lỗi còn tiêu mất nhiều thời gian nữa vì phải dùng ngôn ngữ Asembly và mã máy, lại không hề có máy in nào để giúp cho mắt đọc, tay viết.

"Máy tính đầu tiên không phải là máy tính, mà thực chất nó là hệ phát triển"

Chiếc máy vi tính đầu tiên sử dụng chip Intel 8080A, vì vậy có tên là VT80. Nó được xây dựng theo thiết kế với kỹ thuật quấn dây điện (wrapping) nối các chân cắm do Alain mang sang, vì lúc ấy chưa thể làm được mạch in ở Việt Nam và cũng không được phép hàn trực tiếp vào các vi mạch (microcircuits). VT80 bao gồm bìa CPU, nhiều bìa RAM/ROM và I/O cùng các thứ lỉnh kỉnh từ bảng điều khiển đến vỏ máy, nguồn điện. VT80 khi đó chỉ chạy ở tần số... 2MHz

Chiếc máy tính đầu tiên này giúp nhóm kỹ sư trẻ 15 người hình dung thế nào là một chiếc máy tính cá nhân, mặc dù chiếc máy tính này cũng hết vai trò rất nhanh bởi vì các thế hệ con chip ra đời sau con chip mà Alain mang sang Việt Nam đã được cập nhật, lên 16 bit rồi 32 bit. Do đó, khi nhận được sự hỗ trợ của Alain để đi Pháp làm thực tập sinh, các kỹ sư đã săn tìm vật tư và ấp ủ ý định quay trở về Việt Nam sản xuất loạt máy tính VT tiếp theo.

GS Phan Đình Diệu và các nghiên cứu sinh, thực tập sinh tại Pháp. 

Máy tính đầu tiên không phải là máy tính, mà thực chất nó là hệ phát triển, tức là như cỗ máy cái, từ nó đẻ ra các máy khác. Nó nằm lại ở phòng thí nghiệm, còn chúng tôi làm độ gần chục chiếc như vậy để đưa cho các cơ quan khác, hướng dẫn họ tự làm ra các ứng dụng cho nó mà không cần nhờ tới mình.

Và để có đủ vật tư làm điều đó, quả thực hồi đó chúng tôi (gồm Nguyễn Chí Công, Trần Bá Thái, Đặng Văn Đức) đều dành dụm tiền lương để mua vật tư về. Điều này có kể lại nghe cũng thật khó tin, bởi hồi đó ai đi nước ngoài cũng chỉ muốn dành dụm tiền để mua hàng hóa hoặc bất động sản”, TS Nguyễn Chí Công nhớ lại.

Máy tính VT81 với màn hình là chiếc TV trắng đen. 

Sau khi trở về Hà Nội để phát triển các thế hệ sau của VT thì chiến tranh biên giới 1979 diễn ra. Dù hoàn cảnh khó khăn, nhưng chiếc máy tính VT 81 ra đời với màn hình đầu tiên ấy chính là một chiếc TV trắng đen mang nhãn hiệu Neptune được “chuyển mục đích sử dụng”.

Chiếc TV này có sẵn mạch in, hệ phát triển và các linh kiện hiện đại hơn nên nhóm lắp ráp đỡ vất vả hơn trước rất nhiều. Tuy nhiên ngành cơ khí chưa chế tạo được vỏ máy tính với độ chính xác mong muốn, vì thế nhóm phải làm bằng thủ công. 

Thành công với những chiếc máy tính này đã nhận được sự quan tâm của Đại tướng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp và cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng thời đó, thậm chí nhóm nghiên cứu đã báo cáo trực tiếp kết quả này với Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại nhà riêng. Với tầm nhìn chiến lược, từ năm 1979, GS Phan Đình Diệu và Alain đã tìm hướng để phải ứng dụng tin học vào giải những bài toán đang đặt ra trong đời sống sản xuất ở Việt Nam.

Mùa hè 1979, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước đã mời Chủ tịch và Tổng thư ký của CCSTV (tức Henri và Alain) sang khảo sát và thảo luận biện pháp đẩy mạnh chuyển giao công nghệ phương Tây, đặc biệt là vi tin học (ngành tin học ứng dụng kỹ thuật vi xử lý). Hợp tác kỹ thuật nhiều năm với các nước XHCN đã lộ dần nhiều mảng trống, cho nên đây là một chuyển hướng sách lược rất quan trọng và đúng đắn. Thật vô cùng tiếc rằng việc này chỉ được thi hành nửa vời với quá ít kinh phí và mấy năm sau thì tắt dần khi người phụ trách bị thay.

Phải đến mùa thu 1979, biên giới phía Bắc mới coi như tạm yên. Đợt thực tập sinh thứ hai cũng quay về nước và những ứng viên khác lại sang Pháp. Bộ phận nghiên cứu được đổi tên thành Phòng Kỹ thuật Vi xử lý, do TS Nguyễn Gia Hiểu và TS Nguyễn Chí Công phụ trách. Cả nhóm tiếp tục chế tạo chiếc máy tính thứ ba với ổ đĩa mềm và cho chạy hệ điều hành CP/M80 để phục vụ anh em Phòng Lập trình bắt đầu viết phần mềm thông dịch (interpreter) cho "Basic Đồi Thông", một ngôn ngữ tựa Basic do anh em tự xây dựng.

Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển đã trở thành nơi phổ biến kỹ thuật vi xử lý đầu tiên ở Việt Nam và nhận nhiều thực tập sinh đến từ những nơi khác. Và chiếc máy tính thứ tư là một hệ phát triển lắp ráp cho Học viện Kỹ thuật Quân sự, nơi ra đời và phát triển một nhóm nghiên cứu khác về ứng dụng vi xử lý trong tự động hóa.

Nhưng việc sản xuất ở quy mô công nghiệp không thể trở thành hiện thực

Tiếp đó, các máy tính của Viện được triển khai cho một số đơn vị phía Nam là công ty Sinco và Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội. Rồi tiếp đó, nhóm nghiên cứu đã tìm hướng để sản xuất hàng loạt máy tính VT8X. Vấn đề đã được đặt ra với đối tác là Liên hiệp các Xí nghiệp Điện tử Việt Nam (nay là Tổng Công ty Điện tử Tin học Việt Nam). Các lãnh đạo của TPHCM khi đó là Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ cũng rất quan tâm đến việc sản xuất máy tính ở quy mô công nghiệp. Song mọi việc là không dễ triển khai vì đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn. Hơn nữa, Việt Nam cũng không thuyết phục được khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế) vì nhiệm vụ sản xuất máy tính đã được phân công cho Liên Xô, CHDC Đức và sản phẩm của họ cũng chưa phải là máy vi tính.

Theo TS Nguyễn Chí Công, thời kỳ bao cấp với nhiều khó khăn đã khiến cho họ không thể phát triển tiếp được các mẫu máy tính mới. Thời kỳ đổi mới sau đó cũng đã đến nhưng các công ty tin học lại đi buôn máy vi tính của Phương Tây và Đông Nam Á cho các nước XHCN. Sau đó, họ vật lộn làm thuê, gia công phần mềm cho nước ngoài. 

Rất tiếc là do hoàn cảnh khó khăn, cũng có thể là do quyết tâm chưa đủ lớn của những người có trách nhiệm và cũng có thể do hướng đi của ngành KHCN nước nhà mà Việt Nam, cho đến nay, đã không có một ngành sản xuất máy tính mà đáng ra nó phải có, thậm chí là thuộc những quốc gia đi đầu trong sản xuất máy tính.

Sau khi bắt đầu thời kỳ đổi mới, TS Nguyễn Chí Công đã cùng tham gia thành lập công ty FPT với chiếc máy vi tính của riêng mình còn sót lại... Nhưng các công ty tin học Việt Nam đã phải vật lộn buôn bán hàng chục năm mới có thể bắt đầu làm thuê gia công phần mềm cho nước ngoài. 

Nhưng cũng không thể gia công phần mềm mãi được, và liệu làm cách nào để tạo dựng chỗ đứng riêng cho công nghệ thông tin Việt khi mà công nghệ phổ biến hiện nay đều thuộc về các hãng nước ngoài? Bằng kinh nghiệm gần cả cuộc đời gắn bó với những chiếc máy tính, TS Nguyễn Chí Công mong muốn giới làm công nghệ Việt Nam “phải có dữ liệu của Việt Nam và tự giải những bài toán đặc thù của Việt Nam. Anh đừng mong giải bài toán toàn cầu vì người ta đã làm hết rồi, mà phải giải bài toán đặc thù của mình, vì sẽ không ai làm cho mình cả, nếu nước ngoài làm cho mình thì sẽ có giá rất đắt”. 

Tiếc là trong thời kỳ chuyển đổi số, để làm được điều đó, gánh nặng không chỉ ở ngành công nghệ thông tin, mà ngành này sẽ cần hợp tác chặt chẽ với các ngành khác để tạo ra bộ dữ liệu của riêng Việt Nam. “Ví dụ, thế giới họ không quan tâm nhiều tới tiếng Việt hoặc tiếng các dân tộc thiểu số thì mình phải có ngữ liệu, làm những ứng dụng xử lý ngôn ngữ tự nhiên tiếng của mình. Và cũng phải làm điều tương tự với dữ liệu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật dân tộc...”, TS Nguyễn Chí Công nói. 

PV/TH