Với một giao diện gương tuyệt vời thì Vista thực sự khiến nhiều người dùng phải mê mẩn, nhưng tốc độ của nó thì lại là một việc không phải ai cũng chấp nhận được. Bài trước chúng tôi đã hướng dẫn bạn 2 cách hiệu quả nhất để tăng tốc độ trong Vista là thêm RAM và tìm kiếm những thành phần gây khó khăn cho hệ thống. Bài này sẽ tiếp tục giới thiệu đến bạn đọc những cách hữu ích nữa để có thể có một tốc độ cải thiện hơn với Vista.
3. Xóa bỏ một số thứ không cần thiết Nếu không có gì lấn phần mất nhiều thời gian của CPU và I/O nhưng hệ thống vẫn chậm, thì thứ tiếp theo mà bạn phải thực hiện là tỉa gọt bớt những thứ thực sự không cần thiết. Nguyên tắc này là một sự bắt buộc nếu bạn sở hữu một máy tính mới được thiết lập từ nơi mình mua hoặc từ nhà sản xuất. Bất cứ khi nào bạn sử dụng máy tính mới, nhiệm vụ đầu tiên là xóa bỏ mọi thứ không cần thiết – tất cả các phần mềm chạy thừ, tất cả các ứng dụng tray (ứng dụng nhỏ) có trong máy tính khi được sản xuất ra tại nhà máy sản xuất và nhiều thứ khác nữa. Đây là một vấn đề thường xảy ra và không được cải thiện nhiều theo thời gian mặc dù năm ngoái đã có nhiều máy tính sử dụng Windows được bán ra không cài đặt sẵn các thành phần không cần thiết.
|
Loại bỏ các ứng dụng không sử dụng |
- Những chương trình phải gỡ bỏ: Những gì bạn nên gỡ bỏ là phần mềm thừ nghiệm, các chương trình hầu như không mấy khi sử dụng, hoặc các ứng dụng có thể được thay thế bằng thành phần khác không đòi hỏi phải tốn kém đến nhiều tài nguyên hệ thống như nó. Nếu một hệ thống phát hành với Roxio hay một số ứng dụng CD burning nặng khác thì chúng tôi khuyên bạn hãy gỡ bỏ chúng và thay thế bằng ImgBurn hay CDBurnerXP. - Những gì nên được gỡ bỏ: Các ứng dụng bảo mật đã được nạp trước vào máy tính. Một trong số chúng làm chậm hệ thống của bạn xuống một cách tồi tệ, những thành phần này có thể được thay thế bằng các thành phần tương đương miễn phí nhẹ hơn nhiều mà vẫn cho bạn những thứ cần thiết. Phiên bản miễn phí của Grisoft, AVG là một ví dụ, giải pháp phần mềm chống virus nhẹ, và có thể không tốn kém đến một hào nào. - Những gì không nên gỡ bỏ: Các ứng dụng hoặc driver dùng để cho phép phần cứng hoặc các chức năng không nguyên bản của Vista. Phần mềm touchpad của máy tính notebook là một ví dụ, nó có rất nhiều hữu ích và điều khiển chỉ làm việc khi cài đặt driver của nhà sản xuất. Một lý do chính tại sao các chương trình lại làm chậm hệ thống không phải là chúng sử dụng nhiều bộ nhớ (mặc dù có thể xảy ra điều đó) mà là bởi vì chúng liên kết với các thành phần quan trọng của hệ thống và ép buộc hệ điều hành hoặc tiện ích nào đó phải đợi ứng dụng hỏi bất cứ khi nào một thứ nào đó được triệu gọi. Một ví dụ thông dụng nhất về vấn đề này là chương trình bổ sung thêm menu chuột phải trong Explorer. Nó là một trong những vùng hay được sử dụng nhất trong Windows để triệu gọi một chương trình nào đó. Nếu ứng dụng liên quan bị lỗi thì hầu như tiện ích sẽ bị treo khi bạn thực hiện kích chuột phải vào một file hay thư mục nào đó, vì ứng dụng đang bắt buộc tiện ích đợi trong nó cư trú ở menu đó.
|
Autorun cho bạn biết những gì chạy khi khởi động, đăng nhập và trong tiện ích |
Có một cách để tìm ra những chương trình nào đang thực hiện các nhiệm vụ tự động chạy này là sử dụng một tiện ích tuyệt vời khác của Sysinternals: Autoruns. Chạy chương trình (với quyền quản trị viên) và kích vào tab "Explorer" để xem những mở rộng gì của tiện ích được cài đặt và những gì có thể đang gây ra các vấn đề đối với máy tính. Tab "Logon" cũng đặc biệt có ích bởi với tab này bạn biết được những gì có thể sẽ được nạp ngược lại với mong muốn của mình. Giống như Process Explorer, bạn cũng có thể biết được nhà cung cấp ra chương trình đó. Bất kỳ chương trình nào trông có vẻ đáng nghi ngờ hoặc khó hiểu đều có thể được hủy chọn, và sau đó bổ sung sau nếu cần. Bạn cũng có thể kích chuột phải vào bất kỳ chương trình nào và chạy Web search với tên thực thi của nó. (Có một số lỗi đã biết với phiên bản gần đây nhất của Web search của Autorun và Firefox 2.0 hiện đang được kiểm tra). Để an toàn bạn phải khởi động lại sau khi đã thực hiện thay đổi bất cứ thứ gì. Một chương trình khác mà bạn có thể sử dụng để lần ra những mở rộng tồi của một tiện ích đó là ShellExView của Nir Sofer. Nó đặc biệt đối với việc giải quyết các mở rộng của tiện ích, tuy vậy xét toàn bộ mà nói, Autoruns là toàn diện hơn cả. Tuy nhiên chương trình này vẫn tỏ ra hữu dụng đối với việc xem xét xem một mở rộng của tiện ích nào đó có phải là chướng ngại vật hay không.
4. Điều chỉnh việc đánh chỉ số tìm kiếm của Vista Hệ thống tìm kiếm của Vista cũng góp phần làm giảm hiệu suất của hệ thống, tuy nhiên bạn không phải bắt buộc phải “sống chung” với nó. Trước tiên, hãy tự hỏi bản thân xem bạn có thực sự cần nó không. Nếu không sử dụng dịch vụ tìm kiếm này nhiều thì điều bạn nên làm là tắt bỏ nó. Nhưng nếu muốn sử dụng dịch vụ này, hãy bắt đầu bằng cách kiểm tra xem các thư mục đang được đánh chỉ số tìm kiếm có phải là những cái mà bạn muốn hay không. Để thay đổi phạm vi của chỉ số, bạn chỉ cần đánh “Index” vào trong thanh tìm kiếm Start và chọn Indexing Options. Lưu ý danh sách các thư mục trong Included Locations; nếu có bất cứ thành phần nào đang được đánh chỉ số mà bạn muốn thay đổi, hãy kích vào Modify -- Show All Locations để đưa ra cây thư mục có thể lựa chọn.
|
Giảm bớt chỉ số tìm kiếm của Vista |
Một số lời khuyên về cách thiết lập chỉ số: - Không nên chọn toàn bộ ổ đĩa mà chỉ nên chọn một cách đơn giản các thư mục có liên quan. Trừ khi bạn dành hết toàn bộ ổ đĩa cho việc đánh chỉ số, đánh chỉ số các thư mục cụ thể. Điều này có thể thu hẹp được phạm vi của những thay đổi có thể làm phát sinh một việc tìm kiếm. - Không đánh chỉ số các thư mục chương trình. Vì ở đây nhìn chung không có dữ liệu đáng phải đánh chỉ số. - Bạn phải lưu ý đến các chương trình của nhóm thứ ba có thể ghi lặp lại dữ liệu vào một thư mục tìm kiếm mà bạn không biết về điều đó và cuối cùng gây ra việc đánh chỉ số tìm kiếm lặp lại. ITunes là một ví dụ trong trường hợp này. Nếu sử dụng iTunes, bạn nên vô hiệu hóa việc đánh chỉ số của thư mục iTunes Music Library. Trong Windows, thư mục này là %userprofile%\My Documents\My Music\iTunes\, nó có file iTunes Music Library.xml bên trong. Nếu bạn có rất nhiều nhạc trong iTunes, thì các file này sẽ trở thành khá lớn và mỗi lần nó thay đổi thì bộ đánh chỉ số của Vista sẽ cố gắng tìm kiếm lại toàn bộ những thứ không cần thiết từ trước và vì vậy tốn rất nhiều thời gian cho việc này. Vì không có lý do riêng nào để đánh chỉ số file này nên nó có thể được loại trừ. Nếu bạn muốn vô hiệu hóa toàn bộ chức năng tìm kiếm này của Vista, hãy vào Services (trong Administrative Tools của Control Panel), kích đúp vào Windows Search, tìm "Stop," và thiết lập kiểu khởi động dịch vụ là "Disabled". Nếu bạn đã cài đặt Outlook 2007 trên Vista, hãy lưu ý rằng chức năng tìm kiếm nâng cao trong Outlook sử dụng việc đánh chỉ số của Vista, chính vì vậy nếu bạn thực hiện điều này thì Outlook cũng bị vô hiệu hóa việc đánh chỉ số này theo. Một số chương trình khác cũng phụ thuộc vào thành phần tìm kiếm của Vista để hoạt động cũng có thể gặp trở ngại, vì vậy bạn phải cẩn thận khi thực hiện điều này. Rõ ràng, để vô hiệu hóa chức năng tìm kiếm này của Vista mà không vô hiệu hóa dịch vụ chỉ bằng cách bỏ chọn tất cả các thư mục mà được đánh chỉ số, điều này đôi khi có những ảnh hưởng không mong đợi. Nếu bạn sử dụng hộp tìm kiếm của Start Menu chỉ để tìm kiếm các chương trình bằng tên, không cho email hoặc các file thì có thể tăng được tốc độ tìm kiếm lên rất nhiều bằng cách thay đổi hành vi của hộp tìm kiếm này. Kích chuột phải vào nút Start, chọn Properties -- Start Menu -- Customize, sau đó hủy chọn "Search communications" (nghĩa là e-mail) và "Search favorites and history," và dưới "Search files" chọn "Don't search for files." Điều này có thể làm giảm số lượng thời gian cần thiết để trả kết quả tìm kiếm về, và bạn luôn có thể sử dụng menu Search chính cho một tìm kiếm bao gồm nhiều hơn.
5. Điều chỉnh System Restore Có hai điều chỉnh cơ bản mà bạn có thể thực hiện với System Restore: Thay đổi kích thước kho chứa của System Restore và thay đổi lịch trình làm việc của nó. Thay đổi thứ nhất ảnh hưởng đến bao nhiêu không gian được thiết lập dự trữ trên đĩa cứng đối với System Restore. Thay đổi thứ hai ảnh hưởng đến tần xuất System Restore chạy trong background. System Restore đã được thiết kế để chạy hiệu quả như những gì nó có thể. Tuy vậy trên các máy tính không có nhiều dung lượng I/O dư thừa nhiều như máy tính notebook hay một số máy tính chỉ có một ổ cứng – những thứ có thể làm chậm hiệu suất của hệ thống cũng có góp phần của System Restore. Giải pháp của chúng tôi trong trường hợp như vậy là thiết lập System Restore để chạy ít hơn với mặc định chạy thường xuyên của nó – hoặc trên các máy tính không quan trọng, vô hiệu hóa toàn bộ chức năng này.
|
Thay đổi lịch trình làm việc cho System Restore |
Để thay đổi kích thước không gian cho System Restore, bạn sẽ cần phải soạn thảo không gian lưu trữ Shadow Copy của dung tích đó, đây chính là nơi mà các thông tin về System Restore được giữ. Khởi chạy một cừa sổ nhắc lệnh có liên quan và đánh: vssadmin resize shadowstorage /for=[drive] /maxsize=[size] ở đây [drive] là ký tự ổ đĩa mà bạn sẽ thay đổi kích thước của không gian lưu trữ Shadow Copy (điển hình là C:), [size] là kích thước của không gian để phân phối. Phần chia Shadow Copy mặc định cho dung tích đã cho là 15% không gian trống của dung tích đó, nhưng với kỹ thuật này, nó có thể đặt bằng một số lượng chính xác nếu cần. Để thay đổi lịch trình làm việc của System Restore, bạn hãy mở Task Scheduler và quan sát phần bên trái của panel có thành phần Task Scheduler Library -- Microsoft -- Windows -- SystemRestore. ở phần giữa trên cùng của panel trung tâm, bạn sẽ thấy nhiệm vụ đã được lên lịch trình cho System Restore; kích đúp vào nó và chọn tab Triggers. Mặc định, System Restore được khởi sự ở hai thời điểm: 1) 30 phút sau khi hệ thống được khởi động và 2) hàng đêm (midnight). Trong cả hai trường hợp, mặc định, nó sẽ chạy ngay lập tức có thể nếu trường hợp đã được lên lịch trình bị mất. Bạn có thể soạn thảo hoặc vô hiệu hóa một trong hai thời điểm này bằng cách kích đúp vào chúng và thay đổi theo những tùy chọn. Hãy chọn thời điểm Restore hợp lý vào những lúc máy rảnh rỗi để không tốn tài nguyên khi bạn đang làm việc. Lưu ý rằng nếu bạn thực hiện thay đổi với các thiết lập của System Restore (thông qua tab System Protection trong System Properties -- Advanced), thì các tùy chọn lập lịch trình này có thể sẽ không được thực hiện. Cũng vậy, bạn cũng không được xóa nhiệm vụ SystemRestore, bạn chỉ có thể vô hiệu hóa tất cả các bộ kích hoạt nếu không muốn chạy nó vì bất cứ lý do gì. Nếu cần kích hoạt lại System Restore thì bạn có thể vào Control Panel -- System -- System Protection. Cách làm này sẽ tạo lại nhiệm vụ với lịch trình làm việc mặc định của nó. (còn tiếp)
Văn Linh (Theo Informationweek)