Cần từng bước xây dựng khung khổ pháp lý liên quan đến tài sản số

14:21, 22/08/2024

Theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, dòng tài sản số hay là tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Đến năm 2023, con số này tăng là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong tốp 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (nghĩa là 21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ.

Tài sản số sắp tới sẽ là xu hướng

Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự phát triển và bùng nổ như vũ bão của công nghệ số nói chung và công nghiệp công nghệ số nói riêng là xu hướng tất yếu toàn cầu. Công nghiệp công nghệ số ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí là nền tảng, là hạ tầng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển cũng như đóng vai trò dẫn dắt trong thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc gia số.

Bám sát các định hướng lớn, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của công nghiệp công nghệ số, thời gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã dành sự quan tâm đặc biệt, sự chỉ đạo hết sức sát sao, quyết liệt trong thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ số trên các lĩnh vực cũng như không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách về công nghiệp công nghệ số.

Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao là đơn vị chủ trì xây dựng và đang lấy ý kiến góp ý rộng rãi các cấp, các ngành đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội xem xét và thông qua vào kỳ họp sắp tới.

Dự thảo luật này có nhiều điểm nổi bật về quản lý, hành lang pháp lý, phát triển công nghệ số, trong đó tài sản số lần đầu tiên được định nghĩa tại Điều 8 của dự thảo luật. Theo đó, dự thảo luật khẳng định: "Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan".

Quy định của luật về tài sản số dự kiến được ban hành cũng đặt ra các yêu cầu quan trọng trong việc hoàn thiện các hành lang pháp lý đầy đủ đi cùng với các quy định về quyền sở hữu, nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành.

Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung chia sẻ tại tọa đàm (Ảnh: VGP).

Chia sẻ tại Tọa đàm "Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp" chiều ngày 21/8, ông Phan Đức Trung - Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam cho biết, tài sản số tại Việt Nam sắp tới cũng là xu hướng.

Theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, dòng tài sản số hay là tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Đến năm 2023, con số này tăng là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong tốp 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (nghĩa là 21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023, Việt Nam tụt 5 hạng, đứng thứ 7. Trong khi, hai quốc gia sát Việt Nam là Thái Lan và Singapore đã vươn lên đứng thứ 5 và 3.

Chưa có một khung khổ pháp lý cho tài sản số

Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn cũng cho rằng, mặc dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển nhưng về mặt pháp lý dường như chúng ta chưa theo kịp, chúng ta chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này. Chính vì thế, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên tại Điều 8 có quy định về tài sản số.

Theo ông Tuấn, đây là một điểm nổi bật của dự thảo lần này. Dự thảo dù chỉ đưa ra 1 điều khoản, khoản 1 quy định định nghĩa, khái niệm về tài sản số, khoản 2, 3 có giao cho các bộ, ngành liên quan triển khai việc soạn thảo, hay đưa ra chính sách cụ thể liên quan tới tài sản số này. Về ý nghĩa và sự cần thiết, vì trên thực tế đã phát sinh và tương đối phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, nên cần một khung khổ chính thức có lẽ là điều cần phải tính đến. Có rất nhiều quốc gia đang trong quá trình này.

Khi có khung khổ chính thức thì hoạt động đầu tư kinh doanh theo lĩnh vực này mới có thể hình thành và phát triển được. Chính vì chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên thời gian vừa qua, có những hoạt động đầu tư kinh doanh buộc phải rời bỏ Việt Nam, ví dụ như Tập đoàn Sky Mavis, một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam nhưng do chúng ta chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số rất lớn, nên cuối cùng họ chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở.

Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn (Ảnh: VGP).

Đậu Anh Tuấn cho rằng, với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ như hiện tại, Việt Nam cần phải là điểm đến của các nhà đầu tư công nghệ số. Cho nên, chúng ta từng bước phải xây dựng khung khổ pháp lý cũng là điều rất quan trọng. Khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ.

Đã có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, nhu cầu có khung khổ pháp lý cho tài sản số, cho các giao dịch liên quan tới tài sản số là điều Việt Nam cần cân nhắc và nhanh chóng thúc đẩy.

Liên quan đến vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) Trương Bá Tuấn cho hay, tài sản số có thể sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Nếu thừa nhận và quản lý nó như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của nhiều bộ, ngành có liên quan.

Nếu dự thảo Luật được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tới đây, trong đó đưa ra được định nghĩa về tài sản số cũng như các nội dung có liên quan, thì trong phạm vi và chức năng, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế với các nghĩa vụ thuế phát sinh liên quan đến giao dịch chuyển nhượng tài sản số đó. Còn nếu trong trường hợp pháp luật thuế chưa bao quát được các hoạt động liên quan đến tài sản số thì không có căn cứ để hoàn thiện pháp luật về thuế. Bởi pháp luật về thuế chỉ quy định về thuế gắn với đặc trưng, đặc điểm, hoạt động quy định ở pháp luật chuyên ngành. Như vậy, cần sự đồng bộ trong hoàn thiện các pháp luật có liên quan.