Đào tạo nhân lực cho nền kinh tế số: Thời gian đủ dài và nguồn lực đầu tư lớn
Chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Số lượng sinh viên theo học ngành STEM của Việt Nam trong những năm trở lại đây đã tăng nhưng còn thấp so với nhiều nước. Ảnh minh họa: INT
Nhiệm vụ quan trọng này cần được thực hiện với những giải pháp đồng bộ để không chỉ đủ nguồn nhân lực mà quan trọng hơn bảo đảm về chất lượng.
TS Nguyễn Văn Cường – Đại học Potsdam (CHLB Đức): Chương trình phù hợp là nền tảng cho mọi hoạt động đào tạo
TS Nguyễn Văn Cường.
Việc ban hành Chiến lược và Chương trình “Phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050”, Chỉ thị “Về việc đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho ngành bán dẫn và một số ngành công nghệ số cốt lõi” thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ và đúng hướng của Việt Nam trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới do sự phát triển khoa học và công nghệ tạo ra.
Với quan điểm coi đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn là “đột phá của đột phá” trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các văn bản này đã tạo ra nền tảng chính sách cần thiết và những định hướng cơ bản cho việc đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế số.
Tuy nhiên, việc đảm bảo chất lượng và số lượng nguồn nhân lực được đào tạo cần triển khai các chính sách một cách hiệu quả, đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Trong đó, xây dựng chương trình phù hợp là nền tảng cho mọi hoạt động đào tạo. Một số tiếp cận sau đây cần lưu ý trong xây dựng chương trình đào tạo:
Chương trình đào tạo phải xây dựng theo định hướng năng lực, đó là chương trình đào tạo chú trọng khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Chương trình đào tạo được xây dựng trên cơ sở chuẩn đào tạo, đó là những yêu cầu về phẩm chất, năng lực người học cần được trang bị.
Nội dung đào tạo tập trung vào kiến thức, kỹ năng nền tảng, cốt lõi, mang tính cập nhật, gắn với thực tiễn nghề nghiệp và cuộc sống. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cần đặc biệt chú trọng vì kiến thức ngày nay thay đổi nhanh chóng, nhất là trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn, công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo. Người tốt nghiệp phải giải quyết các vấn đề chuyên môn luôn thay đổi, kể cả nội dung ngày nay chưa biết đến.
Chương trình đào tạo cần bao gồm chương trình dài hạn với các bậc trình độ đào tạo khác nhau để đảm bảo đội ngũ chuyên gia chất lượng cao cũng như chương trình bồi dưỡng ngắn hạn nhằm tăng cường nhanh chóng số lượng đội ngũ nhân sự có năng lực về các lĩnh vực đào tạo ưu tiên.
Chương trình đào tạo cần gắn với thực tiễn doanh nghiệp trong nước và quốc tế cũng như nắm bắt các xu hướng phát triển. Chương trình được xây dựng trên cơ sở đánh giá thực trạng và dự báo nhu cầu. Tuy nhiên cần nhận thức rằng việc phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, số hóa, trí tuệ nhân tạo có thể có đột phá và bùng nổ. Vì vậy, tính linh hoạt cao cần là đặc điểm của chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo các lĩnh vực bán dẫn, công nghệ mới, bao gồm công nghệ số, trí tuệ nhân tạo không chỉ bao gồm kiến thức, kỹ năng chuyên môn, mà cần cả kiến thức về luật pháp, đạo đức liên quan đến các lĩnh vực công nghiệp đó.
Đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho ngành bán dẫn và một số ngành công nghệ số cốt lõi mang tính cấp thiết và lâu dài. Bên cạnh tăng cường đào tạo giáo dục chuyên nghiệp, cần tăng cường giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông về các lĩnh vực nghề nghiệp này.
PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng): 6 giải pháp phát triển nhân lực
PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu.
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực về số lượng và chất lượng cho nền kinh tế số, trước hết cần rà soát và dự báo nhu cầu nhân lực các ngành, đặc biệt tập trung vào ngành STEM. Cùng đó, nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo đáp ứng sát với yêu cầu thực tiễn của xã hội và doanh nghiệp; liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp trong đào tạo, nghiên cứu và phát triển.
Đồng thời, xây dựng kho học liệu số và chương trình học online để người học dễ dàng tiếp cận và tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật những kiến thức mới. Mang đến cơ hội tiếp cận các ngành STEM ngay từ lứa tuổi nhỏ để xây dựng cho các em sự đam mê với các lĩnh vực STEM và định hướng nghề nghiệp từ sớm.
Ngoài ra, tôi đưa ra một số đề xuất cụ thể như:
Thứ nhất, xây dựng và cập nhật chương trình đào tạo số. Theo đó, thiết kế và phát triển các chương trình đào tạo linh hoạt, cập nhật liên tục theo sự phát triển của công nghệ, nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Chương trình tập trung vào kỹ năng thực tiễn: Ngoài kiến thức chuyên môn, chú trọng đào tạo kỹ năng mềm như làm việc nhóm, tư duy sáng tạo, khả năng học hỏi liên tục. Điều này giúp sinh viên thích nghi nhanh chóng với môi trường làm việc thực tế.
Thứ 2, xây dựng kho học liệu số, phát triển tài nguyên học tập trực tuyến, tạo ra các kho học liệu số phong phú, bao gồm bài giảng, tài liệu tham khảo và bài tập thực hành giúp sinh viên, người lao động dễ dàng tiếp cận và tự học. Đảm bảo các tài liệu cập nhật liên tục, phản ánh thay đổi và xu hướng mới nhất trong lĩnh vực công nghệ.
Thứ 3, mở rộng hợp tác và liên kết đào tạo. Thiết lập quan hệ đối tác giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp để xây dựng chương trình đào tạo sát với nhu cầu thực tế, tạo cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên. Việc tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, đưa sinh viên tiếp xúc sớm với môi trường làm việc thực tế rất quan trọng. Có thể thực hiện thông qua tham gia các chương trình trao đổi, hợp tác với các trường đại học và tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao chất lượng đào tạo.
Thứ 4, đào tạo lại và nâng cao chất lượng giảng viên với bồi dưỡng chuyên môn và khuyến khích nghiên cứu. Cụ thể, tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo cho giảng viên để cập nhật kiến thức, kỹ năng mới nhất trong lĩnh vực công nghệ. Tạo điều kiện, khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học, phát triển các dự án công nghệ để nâng cao trình độ, đóng góp vào kho tàng tri thức.
Thứ 5, đầu tư trọng tâm, trọng điểm. Theo đó, với phát triển cơ sở hạ tầng, cần đầu tư vào trang thiết bị, phòng thí nghiệm và công nghệ hiện đại, tạo môi trường học tập, nghiên cứu tiên tiến cho sinh viên, giảng viên. Ưu tiên lĩnh vực chiến lược: Tập trung nguồn lực vào các ngành công nghệ mũi nhọn, có tiềm năng phát triển, đóng góp lớn cho nền kinh tế số.
Thứ 6, đổi mới quản lý và quản trị việc áp dụng công nghệ trong quản lý, như: Sử dụng các hệ thống quản lý học tập (LMS) và công cụ số hóa để tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát quá trình đào tạo. Xây dựng cơ chế quản lý minh bạch, linh hoạt, tạo điều kiện cho sự đổi mới, sáng tạo trong giáo dục và đào tạo.
TS Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý hữu nghị: Đồng bộ từ dự báo nhu cầu đến đổi mới quản trị
TS Phạm Kim Thư.
Để sớm bù lấp khoảng trống về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số, cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ từ dự báo nhu cầu thị trường đến đổi mới quản trị đào tạo.
Đối với các ngành trọng điểm - trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (cloud computing), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (blockchain)… - đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số hiện nay, tôi cho rằng cần dự báo nhu cầu thị trường và xác định chỉ tiêu đào tạo với các bước.
Đầu tiên, phối hợp với doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để cập nhật xu hướng và yêu cầu kỹ năng của nền kinh tế số. Tiếp đến, xây dựng cơ sở dữ liệu về nhu cầu nhân lực số theo từng ngành, lĩnh vực và địa phương.
Áp dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để phân tích và dự báo xu hướng nghề nghiệp trong 5 - 10 năm tới. Sau đó, điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo theo hướng tăng tỷ lệ các ngành liên quan đến công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, an ninh mạng, thương mại điện tử...
Chương trình đào tạo số hiện đại đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu nền kinh tế số. Chương trình đào tạo số hiện đại cần đáp ứng được các yêu cầu:
Cung cấp kiến thức và kỹ năng số thiết yếu, cập nhật theo tiêu chuẩn quốc tế; tạo sự linh hoạt và cá nhân hóa trong học tập; rút ngắn khoảng cách giữa giáo dục và thực tiễn doanh nghiệp; hỗ trợ đào tạo lại và nâng cao kỹ năng liên tục; nâng cao chất lượng giảng dạy và quản lý giáo dục; giảm chi phí đào tạo và tăng cơ hội tiếp cận; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia; tích hợp kỹ năng số, tư duy sáng tạo, kỹ năng làm việc từ xa vào tất cả ngành học; có khả năng áp dụng mô hình học tập kết hợp (blended learning) và phương pháp học tập dựa trên dự án thực tiễn.
Xây dựng kho học liệu số và nền tảng đào tạo trực tuyến đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng cơ hội học tập và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số trong giáo dục.
Do vậy cần đầu tư nguồn lực cho việc phát triển kho học liệu số nhằm đáp ứng các yêu cầu: Mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi đối tượng; tiết kiệm chi phí và tối ưu hóa tài nguyên giáo dục; hỗ trợ cá nhân hóa quá trình học tập; cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập; thúc đẩy đào tạo lại và nâng cao kỹ năng; hỗ trợ hợp tác và chia sẻ tri thức toàn cầu; nâng cao hiệu quả quản lý và đánh giá kết quả học tập; ứng dụng công nghệ blockchain để xác thực chứng chỉ đào tạo trực tuyến; xây dựng các nền tảng MOOC chuyên sâu về kinh tế số.
Một trong các giải pháp để sớm bù lấp khoảng trống số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số là triển khai chương trình đào tạo nhanh, ngắn hạn cho người lao động cần chuyển đổi nghề nghiệp. Cung cấp khóa học về kỹ năng số cho người lao động trong các ngành, không chỉ công nghệ thông tin. Hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức đào tạo nội bộ để nâng cao năng lực đội ngũ hiện có.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cũng là yêu cầu quan trọng. Giải pháp gồm: Mời chuyên gia từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế tham gia giảng dạy, hướng dẫn thực hành; bồi dưỡng kỹ năng sư phạm số, phương pháp giảng dạy trực tuyến cho giảng viên. Cần tạo cơ chế đãi ngộ tốt để thu hút giảng viên giỏi trong lĩnh vực công nghệ số như: Cải thiện mức lương, thưởng và phúc lợi cạnh tranh; tạo cơ hội phát triển chuyên môn và nghiên cứu; xây dựng môi trường làm việc sáng tạo, linh hoạt…
Cùng với đội ngũ là hạ tầng đào tạo số. Theo đó, đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm số, trung tâm nghiên cứu AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng. Phát triển hệ thống học tập thực tế ảo (VR/AR) phục vụ đào tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật số. Hỗ trợ trường đại học, cơ sở đào tạo chuyển đổi số trong quản lý và giảng dạy.
Cuối cùng là đổi mới quản lý và quản trị đào tạo. Theo đó, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý đào tạo, đánh giá kết quả học tập. Tăng cường cơ chế kiểm định chất lượng đào tạo theo chuẩn quốc tế. Xây dựng chính sách khuyến khích người học theo đuổi các ngành liên quan đến kinh tế số.
Những giải pháp này cần được triển khai đồng bộ để nhanh chóng thu hẹp khoảng trống nhân lực số, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nền kinh tế số các cơ sở đào tạo cần đưa doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo, từ thiết kế chương trình đến giảng dạy và đánh giá; hợp tác với tập đoàn công nghệ lớn (Google, Microsoft, AWS...) để triển khai các khóa học kỹ năng số; ký kết thỏa thuận công nhận bằng cấp và chứng chỉ với các tổ chức đào tạo quốc tế. - TS Phạm Kim Thư. |