Đi để trở về - Hành trình thầm lặng của những người gieo chữ nơi non cao

11:07, 20/11/2025

Họ có chung xuất phát điểm - sinh ra giữa triền núi nghèo, lớn lên trong gian khó. Nhưng họ chọn trở về quê hương, gieo chữ, ươm mầm và góp phần xây dựng tương lai nơi mình sinh ra. Với họ, nghề giáo không chỉ là công việc, mà là lời hứa với mảnh đất quê nhà và những người dân lam lũ đã nuôi dưỡng mình trưởng thành.

Người chiến sĩ - thầy giáo mang 'con chữ' đến biên cương

Thiếu tá, thầy giáo Lò Văn Phích, cán bộ Đội vận động quần chúng, Đồn Biên phòng Nậm Lạnh (Sơn La), vẫn nhớ như in những ngày đầu đứng lớp.

Là người dân tộc Thái, sinh ra tại mảnh đất Sốp Cộp, một xã vùng sâu vùng xa của tỉnh Sơn La, anh may mắn hơn nhiều bạn bè khi được đi học rồi trở thành chiến sĩ Bộ đội Biên phòng. Nhưng may mắn ấy cũng khiến anh đau đáu: "Nếu mình được học để đổi đời, thì bà con quê mình cũng xứng đáng có cơ hội ấy".

Năm 1992, khi mới 18 tuổi, anh nhận ra khát vọng biết chữ cháy bỏng của đồng bào Mông. Lúc đó, chẳng ai trong đơn vị biết tiếng Mông, bà con thì không nói được tiếng Kinh – tất cả chỉ có thể trao đổi bằng những cái chỉ tay. Thế mà, họ vẫn lặn lội gùi dưa, gùi dừa xuống đơn vị để đổi lấy muối về ăn.

Hiểu được nỗi khó ấy, anh đã đề xuất mở lớp xóa mù chữ. Ý tưởng được chấp thuận, và lớp học đầu tiên ra đời trong thiếu thốn trăm bề: bàn ghế tre nứa, đèn dầu leo lét, đường vào bản cách trung tâm huyện gần 100 km...

"Tôi đã tham mưu cho chỉ huy đơn vị về việc tổ chức lớp học xóa mù chữ cho bà con dân bản. Chỉ huy đơn vị đã nhất trí. Sau đó, ban chỉ huy đơn vị đã báo cáo lên Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh Sơn La để phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, tiến hành mở lớp xóa mù chữ đầu tiên vào năm 1992", thầy giáo Lò Văn Phích kể lại.

Lớp học năm ấy có học trò từ 12 đến 45 tuổi. Chiến sĩ trẻ Lò Văn Phích cầm phấn còn run, nhưng lời dạy của Bác Hồ giúp anh vững lòng: "Người biết nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người không biết".

Một tháng sau, bà con đã đọc được, viết được. Tin vui lan đi, người dân các bản như Khơ Mú và xung quanh cũng đến, xin được tham gia lớp học.

Thiếu tá, thầy giáo Lò Văn Phích đau đáu: "Nếu mình được học để đổi đời, thì bà con quê mình cũng xứng đáng có cơ hội ấy".

Hơn 30 năm qua, thầy giáo Lò Văn Phích vẫn gắn bó với những lớp học giữa đại ngàn. Anh vừa dạy chữ, vừa cùng bà con lên nương, đào sắn, người dân coi anh như người con chung của bản làng.

Nhiều học viên ngày ấy nay đã có việc làm, thậm chí giữ chức vụ lãnh đạo xã. Có người từ lớp xóa mù chữ đầu tiên học tiếp tới lớp 4 tại xã…, rồi đỗ đại học, trở về phục vụ quê hương.

"Hay như giai đoạn 2022–2023, giữa lúc đại dịch COVID-19 còn nhiều diễn biến phức tạp, chúng tôi vẫn nỗ lực mở được một lớp xóa mù chữ với 60 học viên tham gia. Sau khóa học, nhiều người đã tìm được việc làm ổn định, tự tin bước vào môi trường mới nhờ biết đọc, biết viết. Thỉnh thoảng, tôi nhận được những cuộc gọi hỏi thăm từ các em đang làm việc ở Hà Nội hay Hưng Yên, lòng lại thấy ấm áp lạ thường. Và ở bất cứ bản làng nào đi qua, khi nghe bà con trìu mến gọi mình là thầy giáo, tôi cảm thấy đó là niềm tự hào lớn nhất trong đời", thầy giáo Lò Văn Phích chia sẻ.

Từ thuở nhỏ, cô Y Hải đã mơ làm cô giáo để giúp trẻ em buôn làng không phải lớn lên trong mù chữ như nhiều thế hệ trước.

Cô giáo Giẻ Triêng và hành trình đưa công nghệ về bản

Nếu thầy Phích gieo chữ ở vùng biên giới Sơn La, thì cô giáo Y Hải, Tổ trưởng khối 1, Trường Tiểu học & THCS Đắk Dục (Quảng Ngãi) lại miệt mài mang "hơi thở thời đại" về ngôi trường nhỏ giữa núi rừng Tây Nguyên.

Sinh ra trong một gia đình dân tộc Giẻ Triêng nghèo khó và hiện đang sinh sống tại xã Dục Nông (Quảng Ngãi), Y Hải hiểu rất rõ "cái chữ" quý đến nhường nào. Từ thuở nhỏ, cô đã mơ làm cô giáo để giúp trẻ em buôn làng không phải lớn lên trong mù chữ như nhiều thế hệ trước.

Dạy học ở vùng biên giới không chỉ thiếu thốn về cơ sở vật chất, mà còn đối mặt với thách thức lớn về tiếp cận công nghệ. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đặt ra yêu cầu phát triển toàn diện cho học sinh, trong khi nhiều em nơi đây thậm chí còn bỡ ngỡ trước… một con chuột máy tính.

"Không chùn bước, tôi và đồng nghiệp phải tự mày mò, tự thiết kế học liệu số, xây dựng trò chơi học tập trên PowerPoint, đưa bài giảng lên hệ thống E-learning. Chúng tôi vừa học vừa làm, vừa dự thi để hoàn thiện kỹ năng, và thật may mắn khi đã đạt giải cấp tỉnh. Nhờ những đổi mới ấy, học sinh dần tự tin, hứng thú hơn. Nhìn ánh mắt các em sáng bừng khi lần đầu tự mình điều khiển con chuột, điều giản dị đó với tôi là niềm hạnh phúc lớn lao", cô giáo Y Hải xúc động chia sẻ.

Với cô, ký ức đẹp nhất chính là sự tiến bộ từng ngày của học sinh, từ những bước chập chững tiếp cận máy tính đến việc tự tin thực hiện các thao tác cơ bản. Điều đó không hề dễ dàng, nhất là khi phần lớn các em chưa bao giờ được chạm vào máy tính bảng hay laptop ngoài giờ học. Nhưng nhờ sự quan tâm của nhà trường và việc tham gia các sân chơi như "Trạng Nguyên Tiếng Việt", các em buộc phải rèn luyện kỹ năng công nghệ thông tin, và dần bứt phá.

"Tôi đã chọn một vài học sinh ưu tú nhất tham gia hội thi. Có em rất xuất sắc, thành thạo chuột, biết thao tác nhanh nhẹn và đã đạt giải cấp tỉnh. Với tôi, thành tích ấy quý giá hơn bất cứ tấm bằng khen nào", cô nói. "Bởi các em đã bước được một bước dài, vượt qua rào cản của nghèo khó để chạm tới cơ hội mới".

Động lực nào khiến họ chọn trở về?

Giữa muôn lựa chọn ở thành phố rộng lớn, họ – những người con của núi rừng vẫn chọn quay về quê hương. Không phải vì nơi đây dễ dàng. Trái lại, tất cả đều khó khăn, từ thiếu thốn thiết bị, đường xá xa xôi, đến thu nhập còn hạn hẹp... Nhưng có một điều níu giữ họ đó là tình yêu với bản làng và niềm tin rằng tri thức có thể thay đổi số phận.

Họ trở về, để mỗi con chữ được viết ra trên miền biên viễn này không chỉ là kiến thức, mà còn là hy vọng. Để mỗi học trò biết đọc, biết viết sẽ có thêm cơ hội thoát nghèo. Để tương lai của một bản nghèo có thể thay đổi, bắt đầu từ một lớp học nhỏ, một ngọn đèn dầu, hay một bài giảng trên PowerPoint.