EVN muốn phát triển 4.000MW nguồn điện gió ngoài khơi khu vực phía Bắc
EVN đề xuất đến năm 2025, cần đưa vào vận hành thêm khoảng 5.500MW các nguồn điện tái tạo, gồm 4.000MW điện gió ngoài khơi và khoảng 1.500MW điện Mặt Trời kèm theo hệ thống lưu trữ phù hợp.
Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ điện của miền Bắc hiện chiếm gần 50% toàn quốc và dự báo tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước.
Trong năm 2022, nguồn điện ở miền Bắc dự kiến đưa vào vận hành rất ít, các nguồn điện mới bổ sung ở miền Trung và miền Nam (chủ yếu là năng lượng tái tạo) vài năm gần đây cũng chỉ hỗ trợ được một phần cho miền Bắc, do công suất truyền tải qua đường dây 500kV bị giới hạn về kỹ thuật.
Trong khi đó, tình hình cung cấp than cho sản xuất điện gặp rất nhiều khó khăn, hệ thống điện miền Bắc tiềm ẩn nguy cơ tiếp tục thiếu công suất đỉnh trong các tháng nắng nóng.
Chính vì vậy, EVN đề xuất đến năm 2025, cần đưa vào vận hành thêm khoảng 5.500MW các nguồn điện tái tạo, gồm 4.000MW điện gió ngoài khơi và khoảng 1.500MW điện Mặt Trời kèm theo hệ thống lưu trữ phù hợp.
EVN đề xuất phát triển 4.000MW nguồn điện gió ngoài khơi khu vực phía Vịnh Bắc Bộ.
Theo Bà Cao Thị Thu Yến, chuyên gia năng lượng tái tạo và môi trường CTCP Tư vấn Xây dựng điện 1 (EVNPECC1), nhu cầu năng lượng của Việt Nam ngày càng tăng, trong khi các nguồn năng lượng truyền thống đã gần đạt tới ngưỡng phát triển.
Do đó, việc EVN phát triển nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là đi đầu triển khai điện gió ngoài khơi sẽ vừa phù hợp về chuyên môn kỹ thuật, vừa định hướng về đầu tư, đồng thời bảo đảm lợi ích và chủ quyền quốc gia ở khu vực vịnh Bắc Bộ.
Theo nghiên cứu của nhiều tổ chức gồm cả EVNPECC1, tiềm năng gió ở vịnh Bắc Bộ được đánh giá khá tốt, phù hợp phát triển điện gió ngoài khơi. Ở độ cao 100m tốc độ gió khu vực này đạt trung bình khoảng 7,5 - 8,5m/s.
Đánh giá của Cơ quan Năng lượng Đan Mạch (DEA) cho thấy, tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi ở khu vực này khoảng 18GW. Hiện một số tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định đã trình đề xuất phát triển nguồn điện gió ngoài khơi.
Cũng theo bà Cao Thị Thu Yến, để phát triển điện gió ngoài khơi, Việt Nam cần phải vượt khá nhiều thách thức liên quan đến trình độ kỹ thuật, hài hòa lợi ích và giá thành.
Nguồn điện gió ngoài khơi vịnh Bắc Bộ liên quan đến an ninh quốc phòng và các mục đích khai thác, sử dụng biển khác như thủy sản, du lịch, hàng hải, cũng như bảo tồn thiên nhiên... Các khu vực biển được phân vùng nhạy cảm phải được chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, để tập đoàn nhà nước quản lý và khai thác.
Về quy hoạch điện, cần một kế hoạch đồng bộ và tổng thể cấp vùng/tỉnh về nguồn điện và truyền tải điện kèm thời gian huy động cụ thể sẽ tiết kiệm sử dụng nguồn lực và tài nguyên. Cùng với đó là một cơ quan cấp quốc gia tổ chức đánh giá sơ bộ sẽ tránh lãng phí, chồng chéo và khách quan khi tham vấn các bên liên quan.
Về tài chính và quản lý dự án, theo bà Cao Thị Thu Yến, suất đầu tư điện gió ngoài khơi hiện đang giảm nhanh theo thời gian và phụ thuộc vào quy mô dự án, loại hình công nghệ, tài nguyên khu vực biển và ven biển.
Tổng mức đầu tư cho một dự án có công suất 1.000MW điện gió ngoài khơi ở Việt Nam được ước tính là 3,15 tỷ USD và được dự báo giảm còn 2,15 tỷ USD vào năm 2030.
Liên quan đến kỹ thuật, theo đại diện EVNPECC1, điện gió ngoài khơi là loại hình nguồn mới, phức tạp về công nghệ và việc thi công phụ thuộc vào thời tiết, song Tập đoàn Điện lực Việt Nam có các đơn vị tư vấn có đầy đủ năng lực hỗ trợ lập quy hoạch và tư vấn đầu tư/thiết kế cũng như tư vấn quản lý dự án cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Chân Hoàn (T/h)