Hiện thực hóa khát vọng tự chủ công nghệ
Với khát vọng phát triển, Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư, đổi mới sáng tạo, từng bước chinh phục và nắm giữ những công nghệ cốt lõi, mở đường cho nền kinh tế tri thức, xanh và bền vững.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, tự chủ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ chiến lược trở thành yếu tố sống còn đối với Việt Nam. Không chỉ là nền tảng để nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc gia, làm chủ công nghệ còn là chìa khóa bảo đảm độc lập, tự chủ và khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Với khát vọng phát triển, Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư, đổi mới sáng tạo, từng bước chinh phục và nắm giữ những công nghệ cốt lõi, mở đường cho một nền kinh tế tri thức, xanh và bền vững.

Việt Nam đang đẩy mạnh đầu tư, đổi mới sáng tạo, từng bước chinh phục và nắm giữ những công nghệ cốt lõi. (Ảnh minh họa)
Để hiện thực hóa mục tiêu tự chủ công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số (CNCNS) đã hình thành hành lang pháp lý phát triển ngành CNCNS, trong đó xác định: Huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; Từng bước làm chủ CNS; Xây dựng hạ tầng CNCNS dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động CNCNS; Ưu đãi thuê, mua sắm sản phẩm, dịch vụ CNS sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
Có cơ chế đặt hàng cho tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nghiên cứu, sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghệ số trọng điểm; Sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thuộc các dự án quan trọng quốc gia, dự án có tính chất, yêu cầu đặc biệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương thực hiện theo quy định pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đấu thầu. Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để hoàn thiện hành lang pháp lý.
Đồng thời, thực hiện quan điểm chỉ đạo, định hướng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và nguyên tắc khẳng định trong Luật Công nghiệp công nghệ số, thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ tập trung triển khai một số nhóm chính sách trọng tâm để hiện thực hóa mục tiêu tự chủ công nghệ, cụ thể như sau:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật: Sớm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Công nghiệp công nghệ số: 03 Nghị định, 08 Thông tư hướng dẫn Luật Công nghiệp công nghệ số. Đề án hình thành doanh nghiệp công nghệ số quy mô lớn trong nước. Chương trình quốc gia phát triển công nghiệp chiến lược. Đề án đưa doanh nghiệp công nghệ số vươn ra toàn cầu. Chương trình phát triển công nghiệp công nghệ số.
Đầu tư có trọng điểm: Thành lập Quỹ đầu tư quốc gia phát triển công nghiệp chiến lược, trong đó ưu tiên cho phát triển công nghiệp công nghệ số; Sử dụng ngân sách Nhà nước, các Quỹ, nguồn kinh phí hợp pháp khác để tập trung hỗ trợ đầu ra cho CNCNS; Hỗ trợ 10.000 tỷ xây dựng nhà máy bán dẫn đầu tiên; Giao bài toán quốc gia cho các DN lớn.
Lựa chọn sản phẩm quốc gia có thị trường nội địa lớn và khả năng xuất khẩu để phát triển như: Xe điện tự lái, robot, vệ tinh tầm thấp, 5G/6G, chip AI, IoT, Sàn giao dịch tài sản số,... Thực hiện mô hình 3 nhà (NN-DN-Viện) theo dự án cụ thể, chia sẻ lợi ích minh bạch, trong đó DN được xác định là trung tâm.
Phát triển hạ tầng công nghệ và công nghiệp: Đầu tư trung tâm tính toán hiệu năng cao AI với quy mô khoảng 200-300 triệu USD phục vụ quốc phòng, y tế, nông nghiệp; phát triển các CNS chiến lược: AI, Big data, Cloud computing, IoT, bán dẫn,... Thành lập Trung tâm quốc gia về sản xuất thử nghiệm tape-out chip bán dẫn. Dự kiến phát triển 06 cụm công nghiệp chiến lược gắn với 6 vùng kinh tế trọng điểm (ưu tiên công nghiệp công nghệ số): R&D + sản xuất + đào tạo+logistics. Dự kiến xây dựng 01 đặc khu ĐMST để phát triển công nghiệp chiến lược (ưu tiên CNCNS chiến lược).
Phát triển doanh nghiệp công nghệ số đầu tàu: Lựa chọn, hỗ trợ và tập trung nguồn lực cho một số doanh nghiệp chủ lực có khả năng dẫn dắt, giải quyết các bài toán quốc gia, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu và từng bước tự chủ sản phẩm công nghệ chiến lược.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Tổ chức các chương trình đào tạo, liên kết giữa nhà nước – doanh nghiệp – viện, trường để hình thành đội ngũ kỹ sư, chuyên gia làm chủ CNS chiến lược.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế có chọn lọc: Tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tập trung chuyển giao công nghệ có điều kiện, bảo đảm người Việt Nam làm chủ công nghệ nhập khẩu và phát triển công nghệ trong nước. Hợp tác chiến lược với các tập đoàn CNS lớn. Tham gia mạng lưới R&D CNS toàn cầu. Hỗ trợ doanh nghiệp CNS Việt Nam tham gia chuỗi giá trị quốc tế và vươn ra toàn cầu.