Nâng cao sức mạnh không gian mạng quốc gia Việt Nam (phần II)
Bên cạnh việc nghiên cứu các chỉ số đánh giá sức mạnh không gian mạng một quốc gia theo các tổ chức uy tín trên thế giới đã được đưa ra trong Phần I. Để tiếp nối nội dung, tác giả tiếp tục trình bày các thông tin chọn lọc về xu hướng và những thách thức cần lời giải để phát triển an toàn, an ninh mạng quốc gia. Phần II của bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao sức mạnh mạng của Việt Nam.
Chiến lược phát triển của Việt Nam
Thứ nhất, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định Chiến lược phát triển lĩnh vực thông tin, truyền thông, không gian mạng đến năm 2030 như sau:
Về phát triển kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số: “Hoàn thành xây dựng Chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về Chính phủ điện tử, kinh tế số”.
Về quốc phòng, an ninh trên không gian mạng: “Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí, Internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng”; “Thiết lập thế trận an ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng; đặc biệt coi trọng an ninh mạng”; “Giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống”.
Thứ hai, một số chính sách và pháp luật quan trọng đã ban hành:
Luật An ninh mạng năm 2018 góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về an ninh mạng; bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng, xây dựng môi trường mạng lành mạnh.
Nghị quyết số 30-NQ/TW (năm 2018) của Bộ Chính trị về “Chiến lược an ninh mạng quốc gia” là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng, đấu tranh phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng và ứng phó hiệu quả đối với những nguy cơ mới đến từ không gian mạng.
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đề xuất mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.
“Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030” đặt ra 06 nhiệm vụ: Hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hạ tầng số quốc gia, phát triển nền tảng số quốc gia, phát triển dữ liệu quốc gia, phát triển các ứng dụng quốc gia và bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia. Theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc, Việt Nam sẽ thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu vào năm 2030 về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
“Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đề ra nhiệm vụ phát triển nền tảng kinh tế số và xã hội số, bao gồm: thể chế, hạ tầng, nền tảng số, dữ liệu số, an toàn thông tin mạng và an ninh mạng, nhân lực số, kỹ năng số, công dân số, văn hóa số, doanh nghiệp số, thanh toán số.
“Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030” (năm 2022), đưa định hướng đề ra mục tiêu, định hướng và nhóm giải pháp cụ thể để thực để nâng cao an ninh mạng quốc gia.
Một số kiến nghị nâng cao sức mạnh không gian mạng Việt Nam
Có thể thấy ở tầm chiến lược, chúng ta đã nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của công nghệ số đối với phát triển đất nước. Nhận thức này được cụ thể hóa trong các chiến lược quốc gia, thể hiện quyết tâm cao độ của cả hệ thống chính trị trong mục tiêu nâng cao năng lực quốc gia Việt Nam trên không gian mạng. Báo cáo kết quả chuyển đổi số quốc gia năm 2023 cho thấy: Về thể chế số, trong khoảng thời gian từ năm 2020 - 2023 đã ban hành 02 Luật, 14 Nghị định và nhiều văn bản pháp quy khác; về hạ tầng số, đã kết nối mạng đến 100% huyện, xã trên toàn quốc; về nhân lực số, Việt Nam có khoảng 1,5 triệu lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ số; về nền tảng số, gồm 38 nền tảng (08 cho Chính phủ số, 12 cho kinh tế số, 11 cho xã hội số và 07 nền tảng đa mục tiêu); về kinh tế số, tốc độ tăng trưởng đạt 20%; về xã hội số, cả nước có 78 triệu người dùng Internet với 160 triệu thuê bao di động.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng phải nhìn nhận rằng chúng ta còn những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới như xếp hạng về Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên Hợp Quốc chỉ đứng thứ 6 trong khu vực ASEAN; kinh tế số vẫn còn hạn chế và kết nối giữa các nền tảng chưa đáp ứng yêu cầu; xã hội số còn nhiều vướng mắc; từ nhận thức đến hành động còn có khoảng cách; đầu tư chưa tương xứng; môi trường pháp lý cần hoàn thiện hơn nữa; hưởng thụ về chuyển đổi số của người dân, doanh nghiệp còn hạn chế; một số Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự coi trọng chương trình chuyển đổi số. Để nâng cao sức mạnh mạng quốc gia, chúng ta cần quan tâm làm tốt một số lĩnh vực sau:
- Công tác xây dựng thể chế: Lĩnh vực ICT có ba đặc điểm nổi bật là: (1) Tính toàn cầu: không bị giới hạn về không gian địa lý; (2) Tính cách mạng: thay đổi, phát triển liên tục; (3) Tính phổ biến: tham gia vào tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - kinh tế - xã hội. Do đó trong quá trình hoàn thiện thể chế cần chú ý đến các yêu cầu: (1) Sự tương thích giữa các chính sách trong nước với quốc tế; (2) Đảm bảo tính kịp thời, theo kịp sự phát triển của khoa học - công nghệ; (3) Tính phối hợp tổng thể liên ngành. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách cần thể hiện tính chủ động, phát huy vai trò của các doanh nghiệp và người dân.
- Nâng cao chất lượng nguồn lực con người: Một trong những điểm nghẽn hiện nay chính là công tác về phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số. Nếu không có những hành động quyết liệt, không có những cơ chế đủ mạnh để đáp ứng về số lượng cùng chất lượng nguồn nhân lực đẳng cấp quốc tế thì Việt Nam không thể hiện thực hóa các mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên thông tin. Hiện nay, các chính sách đào tạo nhân lực số chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng chuyên gia; còn nhiều nhóm đối tượng khác chưa được quan tâm đúng mức. Do đó phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn, phân lớp, phân loại thành các nhóm để có chính sách đào tạo phù hợp. Bên cạnh đó, phải có chiến lược thu hút nhân tài công nghệ từ nước ngoài về Việt Nam, tập trung vào những người gốc Việt.
- Phát triển hạ tầng số: Hệ thống kết cấu hạ tầng ở Việt Nam như hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin còn chậm về tốc độ, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển Internet vạn vật, thành phố thông minh, phương tiện tự động, sản xuất thông minh…; việc tiếp cận dịch vụ băng rộng ở khu vực nông thôn, miền núi còn hạn chế; hạ tầng vật lý chưa đáp ứng được yêu cầu ứng dụng các phương thức quản lý thông minh; hệ thống hạ tầng cơ sở dữ liệu dùng chung quốc gia còn chậm được triển khai; cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia tạo nền tảng cho kinh tế số còn phân tán, thiếu, chưa được chuẩn hóa và đồng bộ; hạ tầng thanh toán số chưa đồng bộ, độ phủ chưa lớn. Nguyên nhân của vấn đề này được cho là do công tác quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam còn nhiều bất cập, chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu tính đồng bộ, kết nối và tầm nhìn dài hạn. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn nhiều bất cập; hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, một số quy định chưa phù hợp.
- Làm chủ và xuất khẩu công nghệ: Chương trình “Make in Vietnam”, với trọng tâm là nghiên cứu sản xuất thiết bị 5G, IoT, điện thoại thông minh, các nền tảng phục vụ chuyển đổi số quốc gia; các doanh nghiệp Việt Nam thay vì gia công, lắp ráp thì tập trung làm sản phẩm. Hiện nay, Việt Nam là thị trường của gần 100 triệu dân, có khả năng tiếp cận thị trường ASEAN gần 600 triệu dân và thị trường RCEP hơn 2 tỉ dân và nhiều thị trường quan trọng khác. Nếu có lộ trình và hướng đi đúng đắn, công nghệ Make in Vietnam sẽ vươn tầm thế giới và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Việt Nam làm chủ công nghệ, sáng tạo công nghệ, dựa trên công nghệ mở, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế tập trung giải quyết bài toán Việt Nam và từ đó vươn ra thế giới.
- Bảo vệ chủ quyền quốc gia, an toàn, an ninh trên không gian mạng: Thời gian qua, tình hình an toàn, an ninh mạng diễn biến phức tạp, tác động ngày càng sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, chủ quyền, an ninh quốc gia và tâm lý, nhận thức của người dân. Tuy nhiên, hiện nay đầu tư cho bảo đảm an toàn, an ninh mạng chưa tương xứng nhiệm vụ; việc phối hợp giữa các cơ quan còn hạn chế, hợp tác quốc tế chưa phát huy hiệu quả tích cực; còn tình trạng lộ, lọt bí mật nhà nước.
Bảo vệ an toàn, an ninh mạng là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Phải nâng cao khả năng dự báo, xây dựng, hoàn thiện thể chế về an toàn, an ninh mạng. Đầu tư hơn nữa về lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí nguồn lực, tài chính; nâng cấp công nghệ thường xuyên; chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các cơ quan trong hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của người dân và doanh nghiệp; thúc đẩy hợp tác công tư, xây dựng thế trận lòng dân và thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Tập trung xây dựng hệ sinh thái ICT Việt Nam, trong đó quan tâm đến xây dựng ngành công nghiệp an ninh mạng. Xét theo 07 nhóm Chỉ số về cường quốc không gian mạng thì có 4 nhóm liên quan trực tiếp đến lĩnh vực an toàn, an ninh mạng (theo dõi, giám sát không gian mạng; bảo vệ không gian mạng quốc gia; kiểm soát và định hướng thông tin; tham gia định hình quy tắc, tiêu chuẩn quốc tế). Do đó, nâng cao nhóm chỉ số này sẽ giúp Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn trở thành cường quốc an toàn, an ninh mạng.
- Phát huy sức mạnh văn hóa trên không gian mạng: Trong bối cảnh tác động mạnh mẽ của cách mạng thông tin hiện nay, cuộc cạnh tranh về sức mạnh thông tin, truyền thông (sức mạnh mềm) sẽ góp phần vào cán cân so sánh sức mạnh giữa các nước. Các phương tiện thông tin đại chúng quốc gia và xuyên quốc gia, mạng xã hội có tác động mạnh mẽ đến tâm lý, thế giới quan, quan điểm chính trị của người dân trên thế giới.
Giải pháp gồm: Tăng cường giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về văn hóa; xây dựng chế tài đối với mạng xã hội nước ngoài cung cấp dịch vụ cho người dùng tại Việt Nam; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, phát triển các mạng xã hội do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp; tích cực tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống gắn với giáo dục các kỹ năng xã hội, tư duy phản biện trên không gian mạng cho nhân dân; phát huy vai trò của cộng đồng người dùng trong việc phản biện các thông tin lệch chuẩn, sai trái trên mạng; tăng cường sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm lọc bỏ, ngăn chặn thông tin độc hại, vi phạm pháp luật, trái với đạo đức xã hội. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong phát triển văn hóa, giáo dục, du lịch, nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thông, mạng xã hội…
Kết luận
Không gian mạng là “vùng đất mới” của nhân loại, ở đó có tài nguyên mới, động lực mới cho phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ nếu không quản lý hiệu quả (nguy cơ trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, an ninh, quốc phòng đến kinh tế, văn hóa, xã hội và giá trị con người). Việt Nam cần tích cực, chủ động hơn nữa trong giải quyết các vấn đề cơ bản (đã đề cập trên); đồng thời cần triển khai các nhóm giải pháp bổ sung (về nghiên cứu lý luận, về quy hoạch phát triển quốc gia, về công tác đối ngoại...), qua đó phát huy nguồn lực cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong công cuộc phát triển sức mạnh không gian mạng quốc gia, góp phần nâng cao vị thế đất nước trong thời kỳ mới.