Robot AI mai mối thành công cho nhiều cặp đôi tại Nhật Bản
Những “bà mối AI” này đang được ứng dụng tại hơn 10 tỉnh ở Nhật Bản và đem lại kết quả rất khả quan, với hơn một nửa cặp đôi mới kết hôn được trí tuệ nhân tạo ghép đôi thành công.
Kể từ khi đánh bại các cao thủ cờ vây của con người cách đây 4 năm, AI bắt đầu thể hiện tài năng trong nhiều lĩnh vực. Dù chỉ là trợ lý ở một số vị trí, nhưng trí tuệ nhân tạo đã làm được rất nhiều việc cho nhân loại, với tương lai đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, nó có phần bất lực dưới sự thiết kế và chỉ huy của con người.
Những Robot AI mai mối đang được "tuyển dụng" tại hơn 10 tỉnh ở Nhật Bản. (Ảnh minh họa)
"Người mai mối AI" đã được làm việc tại Nhật Bản và ước tính vẫn có những công chức được "biên chế". Nhằm đối phó với tình trạng giảm tỷ lệ sinh, chính phủ đã chi trả để thúc đẩy AI hỗ trợ hôn nhân và kết nối các doanh nghiệp ở những khu vực khác nhau.
Theo báo cáo, loại robot mai mối này đã thực sự được "tuyển dụng" tại hơn 10 tỉnh ở Nhật Bản và kết quả rất tốt: tỉnh Saitama đã giới thiệu robot mai mối vào năm 2018 - trong số 38 nhóm cặp đôi mới kết hôn vào năm 2019, hơn một nửa được giới thiệu bởi AI; Tỷ lệ kết hôn ở tỉnh Ehime cũng tăng từ 13% lên 29% sau khi triển khai dịch vụ mai mối bằng trí tuệ nhân tạo.
Cơ sở của trí thông minh nhân tạo là dữ liệu. Người mai mối AI này không khác gì người mai mối truyền thống, điểm khác biệt chính là thông tin về những người đàn ông và phụ nữ mà những người mai mối truyền thống nắm giữ được lưu trữ trong tâm trí hoặc trong cuốn sổ nhỏ. Tuy nhiên, với AI, ngoài các kỳ vọng phần cứng về độ tuổi, nghề nghiệp, ngoại hình, học vấn, thu nhập còn thêm một bài kiểm tra giá trị và người dùng sẽ được AI “hiểu thấu”.
Sau khi thu thập thông tin dữ liệu liên quan, AI sẽ đưa ra một loạt suy luận và phán đoán, đồng thời phân tích một cách logic thông tin toàn diện khác nhau trong hệ thống.
Ngay từ năm 1997, Phòng thí nghiệm Truyền thông của Viện Công nghệ Massachusetts, Mỹ đã đưa ra khái niệm về tính toán cảm xúc, cố gắng cho phép máy tính nhận biết, hiểu và thể hiện cảm xúc của con người. Robot AI có thể trò chuyện, hát, làm thơ, vẽ tranh và bán hàng là ứng dụng của công nghệ này. Tất nhiên, các kỹ sư AI có thể sử dụng dữ liệu tích lũy về việc lựa chọn bạn đời và hôn nhân để tính toán rồi lọc ra những cặp đôi phù hợp.
Tuy nhiên, liệu “bà mối AI” có thể đối phó với tỷ lệ sinh ngày càng giảm hay không vẫn còn phải đặt ra câu hỏi.
Theo dữ liệu dân số do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi công bố, số ca sinh ở Nhật Bản năm 2019 là 865.200, mức thấp nhất trong lịch sử trong 4 năm liên tiếp. Theo báo cáo truyền thông mới nhất vào ngày 28/12, 848.000 người được sinh ra ở Nhật Bản vào năm 2020, ít hơn khoảng 17.000 so với năm 2019. Dân số trẻ em dưới 15 tuổi đã giảm trong 40 năm liên tiếp.
Tỷ suất sinh thấp là một hiện tượng xã hội có thể được giải thích bằng nhân khẩu học, kinh tế học và xã hội học. Nó là sản phẩm phụ của tiến bộ công nghệ. Người ta thường thừa nhận rằng con người là động vật hợp lý về kinh tế. Mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia hoặc khu vực càng cao và trình độ học vấn của người dân, đặc biệt là phụ nữ, mức độ sẵn sàng sinh con của mọi người sẽ giảm xuống. Nhịp sống nhanh và giá nhà đất tăng cao cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức sinh.
Với tỷ lệ sinh thấp, Nhật Bản không nằm ở vị trí cuối cùng. Năm 2018, tổng tỷ lệ sinh của Hàn Quốc là 0,98, trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới có tỷ lệ sinh trên 1. Theo tiêu chuẩn nhân khẩu học, một quốc gia hoặc khu vực duy trì "luân chuyển dân số" bình thường và duy trì dân số cơ bản ổn định giữa thế hệ trên và thế hệ dưới. Tổng tỷ suất sinh phải đạt từ 2,1 trở lên, tức là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có ít nhất hai con.
Đánh giá từ lịch sử và kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế, tổng tỷ suất sinh khoảng 1,5 là “ngưỡng cảnh báo nhạy cảm cao”, một khi giảm xuống dưới 1,5 có thể rơi vào “bẫy sinh thấp”. Tỷ lệ sinh của Nhật Bản, Singapore, Hong Kong và Đài Loan của Trung Quốc đều nằm trong nhóm dưới cùng của thế giới và đều nằm dưới mức cảnh báo.
Các học giả tham gia nghiên cứu giáo dục đã phát hiện ra rằng những khu vực này cũng là nơi có tỷ lệ dạy thêm ngoại khóa cho học sinh tiểu học và trung học cao nhất thế giới. Trước sức ép của giáo dục, những người trong độ tuổi đi học ở những nơi này rất ngại sinh con, không muốn sinh con, không dám sinh con.
Vì vậy, để thoát ra khỏi “cái bẫy mức sinh thấp” hay “vực thẳm của mức sinh thấp”, con người phải tự mình bò lên. Giảm chi phí sinh đẻ, nuôi dưỡng và giáo dục là chìa khóa quan trọng. Nó có thể khiến những người trẻ tuổi hạnh phúc, sẵn sàng nuôi dạy con cái và có thể tự hỗ trợ bản thân khi họ lớn lên. AI trong lĩnh vực này sẽ có thể giúp đỡ, thúc đẩy việc chia sẻ các nguồn lực chất lượng cao, cải thiện công bằng giáo dục và đạt được giáo dục cá thể hóa, không tiếp sức cho cuộc “chạy đua vũ trang” giáo dục.
Khi những người trẻ dựa vào hôn nhân AI trong phiên này đã già, có lẽ họ vẫn phải dựa vào AI để đồng hành cùng trò chuyện, giặt giũ nấu ăn, đi chợ và theo dõi sức khỏe...
Theo vietnamnet.vn