Ứng dụng công nghệ số trong phát hiện rủi ro, hậu kiểm tự động chất lượng hàng hoá
Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định rõ về kiểm soát rủi ro, ghi nhãn, đánh giá sự phù hợp và ứng dụng công nghệ số trong quản lý chất lượng, góp phần nâng cao hiệu quả giám sát và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và quy định về nhãn hàng hóa đang được lấy ý kiến trong đó làm rõ trách nhiệm của các bộ ngành trong việc xác định sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro trung bình và mức độ rủi ro cao. Việc xác định rủi ro được thực hiện dựa trên các tiêu chí tại Điều 5 Nghị định và kỹ thuật đánh giá theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 31010 hoặc tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 31010.
Trên cơ sở đó, các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành danh mục sản phẩm, hàng hóa có mức độ rủi ro trung bình, cao cần quản lý, kèm mã HS phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam.
Hồ sơ ban hành danh mục phải có thuyết minh lý do đưa sản phẩm vào quản lý, nêu rõ căn cứ khoa học, thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, kèm theo báo cáo đánh giá rủi ro với các nội dung cụ thể như mô tả sản phẩm, phạm vi sử dụng, phân tích nguy cơ đến sức khỏe và môi trường, đánh giá khả năng kiểm soát rủi ro trong chuỗi cung ứng, thông tin cảnh báo quốc tế, phân loại rủi ro và kiến nghị biện pháp quản lý.
Trước khi ban hành danh mục này, Bộ quản lý ngành phải thống nhất với Bộ Khoa học và Công nghệ. Bên cạnh đó, việc xây dựng quy chuẩn kỹ thuật cho các sản phẩm có mức độ rủi ro trung bình và cao phải tuân theo quy định của pháp luật hiện hành về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ chủ trì phối hợp giám sát việc xác định, quản lý rủi ro nhằm đảm bảo tính thống nhất, tránh chồng chéo giữa các Bộ.
Việc đánh giá rủi ro của sản phẩm, hàng hóa được thực hiện trên cơ sở áp dụng các kỹ thuật đánh giá nêu trên, đồng thời căn cứ vào các tiêu chí như: tác động đến sức khỏe con người (gây độc, kích ứng, ảnh hưởng di truyền, nội tiết, thần kinh, sinh sản, nhất là với nhóm dễ tổn thương như trẻ em, người già, người có bệnh nền); tác động đến môi trường (gây ô nhiễm không khí, nước, đất, nguy cơ tích lũy sinh học, phát tán chất nguy hại, ảnh hưởng hệ sinh thái); khả năng kiểm soát trong chuỗi cung ứng (tính phức tạp, xuyên biên giới, thiếu minh bạch, dễ bị giả mạo, khó truy xuất nguồn gốc); thông tin cảnh báo từ các tổ chức quốc tế và cơ quan có thẩm quyền như WHO, FAO, OECD, ISO, IEC, UNECE, RAPEX.
Dự thảo cũng quy định cơ chế phối hợp và chia sẻ dữ liệu giữa các Bộ ngành, trong đó giao Bộ Khoa học và Công nghệ là đầu mối xây dựng, quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Các Bộ quản lý ngành có trách nhiệm cập nhật dữ liệu về sản phẩm, hàng hóa có rủi ro, báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát hậu kiểm và chia sẻ dữ liệu định kỳ hàng quý, đồng thời khai thác, sử dụng dữ liệu thống nhất trong kiểm tra, giám sát và xây dựng danh mục quản lý.
Dự thảo cũng nhấn mạnh việc phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia thông qua đầu tư của Nhà nước và huy động nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, tăng cường năng lực sản xuất trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Các nội dung bao gồm cơ chế hỗ trợ đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, hợp tác quốc tế, giám sát và đánh giá hiệu quả đầu tư.
Cùng với đó, hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa quốc gia sẽ được thiết lập để phục vụ cảnh báo sớm và hỗ trợ công tác thanh, kiểm tra, trên cơ sở thu thập thông tin từ kết quả đánh giá sự phù hợp, cảnh báo rủi ro, phản ánh của người tiêu dùng và doanh nghiệp, dữ liệu truy xuất nguồn gốc, nhãn điện tử và hộ chiếu số.
Dự thảo đặc biệt nhấn mạnh đến ứng dụng công nghệ số trong phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia, bao gồm áp dụng công nghệ IoT, mã số mã vạch, QR, blockchain để thu thập, cập nhật, chia sẻ dữ liệu xuyên suốt chuỗi cung ứng; sử dụng Big Data và AI để phân tích dữ liệu, phát hiện sớm rủi ro, hỗ trợ kiểm tra hậu kiểm tự động; phát triển hệ thống cảnh báo rủi ro tích hợp từ trong nước và quốc tế. Đồng thời, cơ quan quản lý nhà nước sẽ phát triển công cụ kiểm tra chất lượng số, ứng dụng AI để phân tích mẫu dữ liệu và dự báo rủi ro.

Ảnh minh họa.
Dự thảo cũng quy định chi tiết việc ứng dụng mã số, mã vạch trong quản lý chất lượng và truy xuất nguồn gốc, triển khai nhãn điện tử và hộ chiếu số sản phẩm. Ngoài ra, quy định về ghi nhãn hàng hóa được nêu cụ thể, bao gồm cả ghi nhãn vật lý và nhãn điện tử, nội dung ghi nhãn bắt buộc như: tên hàng hóa, tên và địa chỉ tổ chức chịu trách nhiệm, xuất xứ, thành phần, định lượng, ngày sản xuất, hạn sử dụng, thông số kỹ thuật, cảnh báo, cùng các yêu cầu về ngôn ngữ, vị trí, kích thước, cách ghi nhãn phụ.
Về Giải thưởng Chất lượng Quốc gia, dự thảo nêu rõ mục đích, điều kiện, nguyên tắc, tiêu chí xét thưởng, hình thức giải thưởng, cơ quan điều hành, hội đồng sơ tuyển và hội đồng quốc gia, quy trình và hồ sơ xét thưởng, quyền lợi của doanh nghiệp đạt giải và xử lý vi phạm. Về bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa, quy định cụ thể các yêu cầu trong sản xuất, trước khi nhập khẩu, trước khi xuất khẩu và trong kinh doanh trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử.
Đối với hoạt động đánh giá sự phù hợp, dự thảo nêu rõ điều kiện, trình tự, thủ tục chỉ định, hồ sơ đăng ký, hình thức nộp hồ sơ, việc thu hồi quyết định chỉ định và trách nhiệm của tổ chức được chỉ định. Hoạt động kiểm tra nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng được quy định chi tiết, bao gồm ứng dụng công nghệ và cơ sở dữ liệu trong kiểm tra, kiểm tra trong sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu, lưu thông thị trường, miễn/giảm kiểm tra đối với hàng hóa có rủi ro trung bình và cao, xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
Cuối cùng, dự thảo quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ quản lý ngành, UBND cấp tỉnh/thành phố, cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa tại địa phương và trung ương, cũng như trách nhiệm của Kiểm soát viên chất lượng.