Ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao khi phát triển CCN địa phương
Ngày 7/11, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị về cơ chế, chính sách phát triển cụm công nghiệp. Thông tin đưa ra tại Hội nghị, cơ chế, chính sách quản lý phát triển CCN sẽ coi trọng yếu tố phát triển bền vững, bảo vệ môi trường khi hình thành và phát triển cụm công nghiệp; cùng với đó tận dụng ưu thế địa phương, sử dụng hiệu quả cao nhất tài nguyên đất, ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao.
- Xây dựng Khu công nghệ cao cần xác định mục tiêu cụ thể
- 80 dự án tham giam cuộc thi Chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
- Khởi công Dự án Trung tâm phức hợp điều hành An ninh mạng và công nghệ cao do Bộ Công An làm chủ đầu tư
- Hà Nội thành lập thêm 4 cụm công nghiệp làng nghề với tiêu chí xanh, sạch, ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao
Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị về cơ chế, chính sách phát triển cụm công nghiệp.
Hội nghị nhằm đánh giá kết quả thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP về quản lý, phát triển cụm công nghiệp (Nghị định 68); ngày 11/6/2020, Nghị định số 66/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP (Nghị đinh 66).
Ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương (đơn vị chủ trì thực hiện công tác quản lý, phát triển cụm công nghiệp của Bộ Công Thương) cho biết đến nay, có 42 địa phương đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ cụm công nghiệp.
Trong đó có 13 địa phương ban hành Chương trình/Nghị quyết hỗ trợ riêng đối với cụm công nghiệp giai đoạn đến năm 2025 (gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Phước, Đồng Tháp và Bến Tre).
Các địa phương còn lại chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển cụm công nghiệp được lồng ghép trong các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp, khuyến công; các địa phương chưa ban hành chính sách phát triển cụm công nghiệp do hạn chế, khó khăn về nguồn thu ngân sách trên địa bàn.
Chính sách hỗ trợ cụm công nghiệp của các địa phương chủ yếu tập trung vào các nội dung, hạng mục hạ tầng thiết yếu của cụm công nghiệp để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp như: Quy hoạch chi tiết xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, giao thông, xử lý nước thải tập trung, cấp điện, cấp thoát nước, di dời vào cụm công nghiệp. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách địa phương còn hạn chế nên việc thực hiện hỗ trợ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Tại các địa phương trên cả nước đang tồn tại 3 mô hình chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp: DN làm chủ đầu tư; Đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư; UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư.
Trong đó, cả nước có 508 cụm công nghiệp đã thành lập do DN làm chủ đầu tư; 481 cụm công nghiệp đã thành lập do đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư và 30 cụm công nghiệp đã thành lập do UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư.
Có 42 địa phương đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ cụm công nghiệp.
Mô hình doanh nghiệp làm chủ đầu tư có hiệu quả cao nhất
Về ưu điểm và hạn chế của các mô hình nêu trên, ông Thịnh cho biết, với mô hình DN làm chủ đầu tư: Đây là mô hình phát huy hiệu quả cao nhất, phù hợp với chủ trương kêu gọi xã hội hóa đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thị trường và giảm được gánh nặng ngân sách nhà nước; chủ đầu tư chủ động triển khai nhanh việc đầu tư xây dựng, hoàn thành, duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng cụm công nghiệp, chủ động, nhanh chóng thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp; thủ tục tiếp nhận, cho thuê đất đối với nhà đầu tư thứ cấp thuận lợi,...
Tuy nhiên, giá cho thuê mặt bằng các cụm công nghiệp này thường cao; chỉ thu hút được các 10 DN đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp có vị trí quy hoạch thuận lợi về giao thông, kết nối hạ tầng kỹ thuật bên ngoài, gần nguồn lao động.
Đối với các mô hình chủ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn lại (đơn vị sự nghiệp công lập, UBND cấp huyện/cấp xã) có sự thuận lợi trong công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, thường phù hợp ở những địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn khó thu hút DN làm chủ đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp vì mục tiêu phát triển kinh tế địa phương nên giá cho thuê đối với các DN thứ cấp thấp. Mô hình này được đánh giá phù hợp thu hút các DN thứ cấp có tiềm lực tài chính hạn chế đầu tư sản xuất kinh doanh.
Ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân phát biểu tại Hội nghị.
Ghi nhận những ý kiến của các địa phương, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân khẳng định Nghị định 68, Nghị định 66 đã góp phần thúc đẩy phát triển cụm công nghiệp, giúp công tác quản lý bài bản và hiệu quả hơn. Từ đó, tạo động lực cho phát triển ngành công nghiệp nói chung và tiểu thủ công nghiệp nói riêng.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, có 1 số nội dung phát sinh từ sự chồng chéo giữa các băn bản quy phạm pháp luật, thực tiễn và những tồn tại từ lịch sử, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung 2 nghị định trên.
Lãnh đạo Bộ Công Thương khẳng định sẽ tiếp thu, ghi nhận tất cả những ý kiến nêu trên để áp dụng trong quá trình sửa đổi, xây dựng cơ chế chính sách mới cho công nghiệp.
Trong đó, về công tác quy hoạch, Nghị định sửa đổi sẽ cố gắng tích hợp đồng bộ và đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, nội dung liên quan đến thành lập cụm công nghiệp sẽ kế thừa tinh thần Nghị định 66, Nghị định 68 để đồng bộ quy trình thành lập và hỗ trợ tối đacho nhà đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhà đầu tư thứ cấp.
Nghị định sửa đổi sẽ coi trọng yếu tố lựa chọn để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, cùng với đó tận dụng ưu thế địa phương, sử dụng hiệu quả cao nhất tài nguyên đất, trong đó ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao. Đây là hướng mới trong nội dung dự thảo nghị định thay thế Nghị định 66 và Nghị định 68.
Chân Hoàn (T/h)