Về phương thức sản xuất số

10:32, 21/02/2025

Việc nhận thức về phương thức sản xuất số một cách khoa học, đầy đủ có vai trò quan trọng nhằm từng bước xác lập phương thức sản xuất này trong cuộc cách mạng chuyển đổi số của đất nước, góp phần tạo sự phát triển đột phá, hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư bắt đầu từ thập kỷ trước đã chỉ rõ môi trường sống và phát triển của con người đang thay đổi sâu sắc do những tiến bộ đột phá của khoa học và công nghệ, mở ra một kỷ nguyên mới của loài người - kỷ nguyên số(1). Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”(2).

Phương thức sản xuất số

Một là, sự thay đổi của lực lượng sản xuất số.

Phương thức sản xuất là cách thức một xã hội tổ chức và thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai khái niệm cơ bản trong kinh tế học Mác - Lê-nin, cùng cấu thành nên phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau và quyết định sự phát triển của xã hội. Có thể hiểu phương thức sản xuất số là phương thức sản xuất trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi môi trường sống đã trở nên một môi trường thực - số(3).

Tiến bộ mạnh mẽ của khoa học và công nghệ dẫn đến những thay đổi nhanh chóng của lực lượng sản xuất và của cả phương thức sản xuất. Trong khoảng hơn hai thế kỷ qua, phương thức sản xuất đã thay đổi sâu sắc trong các giai đoạn của những cuộc cách mạng công nghiệp, tương ứng với các đặc trưng cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa và thông minh hóa. Trong giai đoạn cơ khí hóa (từ cuối thế kỷ XVIII), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là than đá và sắt; giai đoạn điện khí hóa (từ cuối thế kỷ XIX), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là dầu mỏ và thép.

Trong giai đoạn tự động hóa (từ giữa thế kỷ XX), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng là nguyên liệu silicon và chất bán dẫn. Các nguyên liệu gốc này là nguồn tạo ra các đối tượng lao động thứ cấp quan trọng như chip bán dẫn để chế tạo các vi mạch và linh kiện điện tử. Từ giai đoạn này, mối quan hệ tương hỗ giữa đối tượng, công cụ và sức lao động ngày càng rõ hơn. Máy tính ra đời như sản phẩm của điện tử và bán dẫn đã nhanh chóng trở thành công cụ sản xuất quan trọng, và công cụ này dẫn đến một loại đối tượng sản xuất mới là dữ liệu(4) và thông tin, cũng như sự phát triển của các công cụ lao động mới - công nghệ thông tin và tự động hóa. Sức lao động ở giai đoạn này chuyển dần qua tự động hóa, chân tay giảm - trí tuệ tăng. 


Tổng Bí thư Tô Lâm xem giới thiệu các ứng dụng chuyển đổi số trong các cơ quan đảng khi dự Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ công tác 2025 của Văn phòng Trung ương Đảng _Ảnh: Tư liệu.

Trong giai đoạn thông minh hóa (từ đầu thế kỷ XXI), đối tượng sản xuất quan trọng và đặc trưng nhất là dữ liệu. Khác với thời tự động hóa chủ yếu dùng dữ liệu cấu trúc và do đó thông tin thu được hạn chế, giai đoạn này khai thác rộng rãi dữ liệu phi cấu trúc, với khối lượng rất lớn do số hóa ở mọi lĩnh vực. Việc số hóa và kết nối rộng khắp này đã chuyển môi trường sản xuất truyền thống thành môi trường thực - số. Công cụ sản xuất tiêu biểu của giai đoạn này là các công nghệ số(5) và AI(6). Tri thức được tạo ra từ dữ liệu ngày nay cũng đã trở thành một loại đối tượng sản xuất và AI tạo sinh có thể giúp con người dễ dàng tìm ra các tri thức quan trọng cần để làm sản phẩm. Với những đặc điểm trên, sức lao động đang dịch chuyển sang thông minh hóa, đòi hỏi những năng lực số thích hợp của người lao động.

Qua những thay đổi của đối tượng và công cụ sản xuất trong tư liệu sản xuất và sức lao động, ta thấy rõ lực lượng sản xuất từ chỗ phụ thuộc nhiều vào lao động cơ bắp và vật liệu thô đã tập trung vào lao động trí óc, dữ liệu và công nghệ số. Sự thay đổi của lực lượng sản xuất qua các cuộc cách mạng công nghiệp phản ánh một xu hướng ngày càng trí tuệ hóa và phi vật chất hóa. Mối quan hệ động và tương hỗ giữa con người, công cụ lao động và đối tượng lao động không ngừng phát triển, dẫn đến những bước nhảy vọt trong năng suất và hiệu quả sản xuất.

Hai là, sự thay đổi của quan hệ sản xuất số.

Việt Nam đang đứng trước yêu cầu thực hiện một cuộc cách mạng chuyển đổi số mạnh mẽ để xác lập phương thức sản xuất số. Khi dữ liệu, tri thức và các công nghệ số như AI trở thành đối tượng và công cụ sản xuất chủ đạo, quan hệ sản xuất ở Việt Nam đối mặt với những cơ hội và thách thức mới.

Về sở hữu tư liệu sản xuất số

Trong giai đoạn thông minh hóa của sản xuất, bên cạnh việc sở hữu các tư liệu sản xuất từ các giai đoạn trước, việc sở hữu dữ liệu và tri thức có vai trò quan trọng hàng đầu. Dữ liệu tại Việt Nam, giống như ở nhiều quốc gia khác, đang được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau, được sở hữu và quản lý bởi nhiều bên.

(1) Dữ liệu do nhà nước sở hữu. Đó là dữ liệu của các bộ, ngành trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; dữ liệu địa phương thu thập ở cấp tỉnh, cấp huyện; dữ liệu từ các cơ quan thống kê quốc gia. Đó là dữ liệu của các doanh nghiệp nhà nước về sản xuất, kinh doanh, tài chính và dữ liệu về thuế và tài chính của các doanh nghiệp tư nhân. Đó còn là dữ liệu từ các tổ chức xã hội, các trường đại học và viện nghiên cứu, dữ liệu thống kê dân số hay dữ liệu từ các cuộc điều tra, khảo sát.

(3) Dữ liệu do các doanh nghiệp sở hữu. Với mọi doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn đó là dữ liệu khách hàng, dữ liệu nhân viên, dữ liệu tài chính về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, dòng tiền, dữ liệu sản xuất, kinh doanh về sản phẩm, dịch vụ, quy trình sản xuất, kho hàng, đối tác và các dữ liệu nội bộ khác.

(3) Dữ liệu sinh ra và thu thập ở Việt Nam nhưng do các doanh nghiệp và tổ chức nước ngoài sở hữu. Đó là dữ liệu người dùng trên nền tảng các phương tiện truyền thông xã hội, như Facebook, Google, Shopee, TikTok; dữ liệu từ các ứng dụng di động, như Google Maps, Grab; dữ liệu từ các thiết bị IoT, như điện thoại thông minh, thiết bị đeo tay; dữ liệu từ các sàn thương mại điện tử quốc tế, như Amazon, Lazada; và dữ liệu do các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam thu thập về sản xuất, kinh doanh, khách hàng, đối tác và dữ liệu do họ nắm giữ.

(4) Dữ liệu tạo ra từ các nguồn khác như từ các thiết bị IoT và cảm biến, từ các cơ sở nghiên cứu khoa học và giáo dục, từ các tổ chức xã hội, phi chính phủ… có sự đa dạng về quyền sở hữu, tùy thuộc vào người hoặc tổ chức tạo ra, các thỏa thuận pháp lý và quy định địa phương.

Tóm lại, ở Việt Nam, dữ liệu được tạo ra từ nhiều nguồn, nhưng quyền sở hữu và khai thác chủ yếu thuộc về chính phủ, doanh nghiệp lớn và các nền tảng quốc tế.

Về tổ chức và quản lý sản xuất số

Trong phương thức sản xuất số, tổ chức và quản lý sản xuất có những đặc trưng và yếu tố quan trọng nổi bật như sau.

(1) Dữ liệu phải được coi là yếu tố sản xuất cốt lõi, quyết định hiệu quả và khả năng tối ưu hóa quy trình và việc quản lý cần dựa trên phân tích dữ liệu thời gian thực.

(2) AI và các công nghệ số liên quan cần được sử dụng để tổ chức sản xuất hợp lý và hiệu quả. Các quyết định cần được hỗ trợ và đánh giá bởi các mô hình AI.

(3) Cần kết nối và tích hợp các hệ thống, các bộ phận của sản xuất, chẳng hạn qua IoT để bảo đảm giao tiếp liên tục giữa các thành phần.

(4) Chú trọng tính linh hoạt và cá nhân hóa, điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu thị trường nhờ các hệ thống sản xuất linh hoạt, tạo khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ cá nhân hóa với chi phí thấp.

(5) Chú trọng khai thác các đặc điểm của môi trường thực - số, tổ chức mọi công việc trên các nền tảng số, với công cụ hỗ trợ như phần mềm quản lý sản xuất, làm việc từ xa và hệ thống cộng tác số.

Tóm lại, việc tổ chức và quản lý sản xuất phải lấy dữ liệu làm trung tâm, kết hợp công nghệ số và AI để bảo đảm tính linh hoạt, đáp ứng nhanh chóng với thị trường.

Về phân phối sản phẩm số

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, quan hệ phân phối sản phẩm giai đoạn hiện nay cũng trải qua những thay đổi căn bản so với các giai đoạn trước.

(1) Tối ưu hóa dựa trên khai thác dữ liệu lớn nhờ AI để dự đoán nhu cầu khách hàng theo thời gian thực, đồng thời dựa vào thông tin từ hệ thống sản xuất và tồn kho để tối ưu hóa phân phối, tránh tồn kho dư thừa hoặc thiếu hụt.

(2) Phân phối linh hoạt và nhanh chóng nhờ áp dụng mô hình phân phối dựa trên nhu cầu với khả năng tùy chỉnh theo yêu cầu khách hàng. Tốc độ giao hàng được tăng cường nhờ tự động hóa như robot giao hàng và drone.

(3) Tạo chuỗi cung ứng kết nối thông minh nhờ tích hợp trên nền tảng số hóa, kết nối liền mạch giữa các nhà sản xuất, kho bãi và đơn vị vận chuyển. Sử dụng IoT để cho phép theo dõi hàng hóa thời gian thực từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng.

(4) Bảo đảm tính minh bạch và truy xuất nguồn gốc do áp dụng công nghệ chuỗi khối để ghi lại thông tin sản phẩm, giúp truy xuất nguồn gốc dễ dàng. Do vậy, sự minh bạch được bảo đảm và tăng lòng tin của khách hàng.

(5) Cá nhân hóa trải nghiệm khách hàng nhờ phân phối sản phẩm theo nhu cầu và sở thích cá nhân của khách hàng, biết được nhờ dữ liệu hành vi tiêu dùng. Sự hài lòng của khách hàng tăng lên thông qua dịch vụ giao hàng linh hoạt.

Tóm lại, phân phối sản phẩm trong nền sản xuất thông minh tập trung vào kết nối, tối ưu hóa và cá nhân hóa. Cách làm hiệu quả là tận dụng sức mạnh của dữ liệu, AI và tự động hóa để tạo ra một chuỗi cung ứng linh hoạt, minh bạch, bền vững và đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường.

Việc xác lập phương thức sản xuất số

Theo cách hiểu truyền thống, sản xuất là quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm vật chất hữu hình hoặc các dịch vụ. Trong phương thức sản xuất số, sản xuất còn bao gồm cả các giá trị tạo ra từ dữ liệu và tri thức như phân tích dữ liệu để chẩn đoán bệnh, dự đoán xu hướng thị trường hoặc tối ưu hóa chuỗi cung ứng... Khái niệm sản phẩm cũng cần mở rộng hơn. Các sản phẩm hữu hình như máy móc, thiết bị và nhiều dịch vụ vẫn giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp và sản xuất vật chất truyền thống, tuy giá trị gia tăng của các sản phẩm này ngày càng đến từ công nghệ số, như xe tự lái hay các thiết bị IoT. Các sản phẩm vô hình ngày càng trở thành trung tâm trong các ngành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, như chẩn đoán bệnh bằng AI hay đào tạo trực tuyến, như các nội dung số của chương trình truyền hình, tài liệu hướng dẫn, bản quyền công nghệ, như các nền tảng số, phần mềm tự động hóa hoặc các công cụ phân tích dữ liệu lớn.


Ứng dụng công nghệ số trong sản xuất công nghiệp _Nguồn: shutterstock.com.

Việc mở rộng cách hiểu về sản xuất và sản phẩm phản ánh bản chất của phương thức sản xuất số và phù hợp với sự chuyển dịch sang nền kinh tế số hiện đại.

Một là, quá trình xác lập phương thức sản xuất số

Nói một cách ngắn gọn thì xác lập phương thức sản xuất số là quá trình thực hiện chuyển đổi số các cấu phần của phương thức sản xuất trong quan hệ và tương tác của chúng. Có nhiều việc phải làm, trong đó có năm việc chính yếu, phải đối mặt và giải quyết trước hết.

Thứ nhất, xây dựng hạ tầng số. Khi dữ liệu và tri thức là đối tượng sản xuất chủ đạo, các công nghệ số và AI là công cụ sản xuất tiêu biểu thì việc đầu tiên là phải xây dựng được hạ tầng số. Đó là hạ tầng số quốc gia, hạ tầng số của các doanh nghiệp từ lớn đến vừa và nhỏ, của mọi tổ chức. Theo đó, hạ tầng số gồm ba thành phần: Hạ tầng kỹ thuật với máy chủ, mạng internet, thiết bị lưu trữ; hạ tầng dữ liệu là nguồn tài nguyên cốt lõi, chứa đựng thông tin và tri thức cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất; và hạ tầng công nghệ với các công nghệ phi vật chất, đóng vai trò như công cụ trí tuệ, hỗ trợ khai thác, xử lý và chuyển đổi dữ liệu thành thông tin và tri thức cần cho sản xuất(7). Xây dựng hạ tầng số chính là xác lập đối tượng và công cụ sản xuất số của lực lượng sản xuất, và sở hữu tư liệu sản xuất số.

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực. Muốn khai thác được hạ tầng số phải có những con người với đủ năng lực số - tức có kiến thức, kỹ năng và thái độ - cần thiết ở những cấp độ khác nhau của sản xuất tại mỗi tổ chức. Sức lao động của giai đoạn sản xuất thông minh đòi hỏi người lao động phải sử dụng được các công nghệ vật chất và phi vật chất tiên tiến. Những năng lực số của người lao động từ mức bình dân đến các mức cao hơn, chỉ có được qua đào tạo và rèn luyện, qua trải nghiệm thực tế sản xuất. Nếu như kiến thức và kỹ năng số có thể học tập và rèn luyện, thì thái độ cần xây dựng qua văn hóa số, văn hóa đổi mới sáng tạo, tức không học, không đổi mới thì không làm việc được trong bối cảnh hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực số chính là xác lập sức lao động số.

Thứ ba, hoàn thiện thể chế. Chuyển đổi số để xác lập phương thức sản xuất số đòi hỏi một môi trường với khung pháp lý quy định rõ ràng, phù hợp và hiệu quả. Đó là việc nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật chất lượng để bảo vệ dữ liệu, bảo vệ an toàn, an ninh mạng và giao dịch mạng, quyền sở hữu trí tuệ trên môi trường số và các quy định liên quan đến chuyển đổi số. Không chỉ để bảo vệ, cần xây dựng luật và quy định để thúc đẩy kinh tế số, có tiêu chuẩn về sản xuất thông minh và thiết lập chính sách hỗ trợ chuyển đổi số, tạo cơ chế thử nghiệm cho các mô hình mới. Hoàn thiện thể chế chính là xác lập pháp lý cho lực lượng và quan hệ sản xuất số.

Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái số cho sản xuất. Những việc cần làm là khuyến khích các trung tâm nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ và khởi nghiệp phát triển các giải pháp phục vụ sản xuất số; tạo môi trường thuận lợi để các khởi nghiệp về công nghệ số phát triển, như các vườn ươm, quỹ đầu tư và tạo cầu nối giữa doanh nghiệp lớn và các dự án khởi nghiệp để cùng phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới. Trong những việc quan trọng cần làm thì việc liên kết giữa doanh nghiệp - trường học - viện nghiên cứu và việc phát triển các nền tảng số dùng chung có vai trò rất quyết định. Xây dựng hệ sinh thái số chủ yếu là việc xác lập quan hệ sản xuất số.

Thứ năm, xây dựng năng lực nội sinh. Vấn đề mấu chốt để sản xuất thông minh và bền vững là đất nước phải có được năng lực nội sinh, tức khả năng tự phát triển và làm chủ công nghệ của quốc gia, có năng lực tiếp thu, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới, có khả năng tự cung cấp giải pháp công nghệ cho nền kinh tế và có được sức mạnh cạnh tranh dựa trên công nghệ tự phát triển. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” là đột phá quan trọng hàng đầu, để khoa học và công nghệ là nguồn năng lực nội sinh cho thực hiện phương thức sản xuất số. Xây dựng năng lực nội sinh là việc xác lập lực lượng sản xuất.

Hai là, hiện trạng và thách thức khi xác lập phương thức sản xuất số

Có rất nhiều thách thức trong quá trình xác lập phương thức sản xuất số, trong đó có thách thức đối với năm việc chính yếu nêu trên.

Thứ nhất, hiện trạng và thách thức về hạ tầng số.

(1) Hạ tầng số quốc gia. Chúng ta có mạng 4G phủ sóng rộng khắp cả nước và đang mở rộng thử nghiệm 5G, cũng như hệ thống cáp quang và trạm phát sóng được nâng cấp liên tục. Về hạ tầng dữ liệu, Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 sau hai năm thực hiện đã tạo một bước tiến lớn về nguồn dữ liệu đúng - đủ - sạch - sống do Nhà nước quản lý và khai thác. Chiến lược phát triển Trung tâm dữ liệu quốc gia bắt đầu thực hiện từ năm 2024, tập trung tại đây cơ sở dữ liệu quốc gia của các bộ, ngành và các địa phương, từ đó xây cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia cho quản trị và điều tiết vĩ mô. Về hạ tầng ứng dụng, 64 dịch vụ số được xác định tại Trung tâm dữ liệu quốc gia sẽ tạo một bước đột phá lớn trong phương thức sản xuất số(8). Thách thức chính của hạ tầng kỹ thuật là khác biệt vùng miền và độ trễ của triển khai mạng 5G. Thách thức chính của của hạ tầng dữ liệu là việc các bộ, ngành và địa phương xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia của mình bảo đảm đúng - đủ - sạch - sống, chuẩn hóa các mô hình dữ liệu để có thể tích hợp và liên thông. Thách thức chính của hạ tầng ứng dụng là nhiều giải pháp phần mềm quan trọng được nhập khẩu, làm tăng rủi ro về bảo mật, chi phí và thiếu tự chủ.

(2) Hạ tầng số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của hạ tầng số và đang đầu tư mạnh mẽ vào xây dựng và phát triển, với các giải pháp đa dạng. Tuy nhiên, quá trình xây dựng hạ tầng số vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những thách thức chính gồm chi phí đầu tư cho cả phần cứng và phần mềm khi công nghệ liên tục thay đổi đòi hỏi vốn đầu tư lớn; việc tích hợp các hệ thống mới vào hạ tầng hiện có đòi hỏi nhiều kiến thức và công sức; nhân lực kỹ thuật và quản lý có đủ năng lực số ở vị trí công việc còn rất thiếu, đặc biệt thiếu nhân lực có chuyên môn cao về phân tích dữ liệu và dữ liệu lớn.

(3) Dữ liệu do bên ngoài nắm giữ. Việc một phần lớn dữ liệu của người dùng Việt Nam nằm trong tay các nền tảng số và các phương tiện truyền thông xã hội lớn, như Google, Amazon, Facebook là một thực tế không thể phủ nhận và đặt ra nhiều thách thức. Đó là việc mất quyền kiểm soát dữ liệu; rủi ro về an toàn do có thể các công ty này sử dụng dữ liệu này cho mục đích của họ.

Thứ hai, hiện trạng và thách thức về nhân lực số.

Việt Nam có một số lợi thế về nhân lực số, bao gồm dân số trẻ, có khả năng tiếp thu công nghệ nhanh và nguồn nhân lực công nghệ thông tin đang phát triển mạnh. Nhiều trường đại học và cơ sở đào tạo đã bắt đầu tập trung vào các chương trình đào tạo về công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu.

Tuy nhiên, những thách thức chính về nhân lực số vẫn còn nhiều. Đó là khoảng cách năng lực số. Ở diện rộng, nhiều lao động chưa được đào tạo đầy đủ về năng lực số cơ bản; thiếu hụt nhân lực có chuyên môn cao trong các lĩnh vực, như khoa học dữ liệu và AI và có sự chênh lệch lớn về nhân lực số giữa khu vực thành thị và nông thôn. Chương trình đào tạo của nhiều trường đại học và cao đẳng chưa theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, thiếu sự gắn kết giữa đào tạo kiến thức và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và hạn chế về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị phục vụ đào tạo kỹ năng số. Sự cạnh tranh nhân lực của kỷ nguyên số ngày càng gay gắt, khó khăn trong việc giữ chân nhân tài, áp lực cạnh tranh về lương thưởng và điều kiện làm việc với các công ty đa quốc gia.

Thứ ba, hiện trạng và thách thức về pháp lý.

Môi trường pháp lý của chúng ta trong việc xác lập phương thức sản xuất số đang có những bước tiến đáng kể, như những nỗ lực ban hành một số luật, nghị định liên quan đến giao dịch điện tử, thương mại điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân..., góp phần tạo ra một khung pháp lý ban đầu cho hoạt động sản xuất số. Tuy nhiên, môi trường pháp lý của nước ta còn thiếu đồng bộ, một số luật hiện hành chưa cập nhật để phản ánh đầy đủ các yêu cầu của công nghệ số; một số lĩnh vực như AI, chuỗi khối, dữ liệu lớn chưa có khung pháp lý cụ thể; quy định về bảo vệ và chia sẻ dữ liệu còn thiếu chi tiết; chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong các sản phẩm số.

Nhiều thách thức về pháp lý trong xác lập phương thức sản xuất số đang đặt ra. Tốc độ điều chỉnh pháp luật còn chậm so với tiến bộ công nghệ, quy trình xây dựng và ban hành luật thường kéo dài dẫn đến tình trạng lạc hậu của pháp luật so với thực tế. Khung pháp lý chưa đồng bộ do các quy định pháp luật liên quan đến sản xuất số được xây dựng rời rạc, thuộc nhiều bộ, ngành khác nhau, gây khó khăn trong việc phối hợp và thực thi. Quy định bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư còn yếu và hành lang pháp lý thúc đẩy sáng tạo còn thiếu.

Thứ tư, hiện trạng và thách thức về hệ sinh thái số.

Hệ sinh thái số của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng với sự xuất hiện của nhiều dự án khởi nghiệp, các nền tảng công nghệ mới. Cộng đồng khởi nghiệp sôi động, cùng với sự hỗ trợ của các chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hệ sinh thái số. Tuy nhiên, nhìn chung, các thành phần trong hệ sinh thái số chưa được kết nối chặt chẽ, hạn chế việc chia sẻ nguồn lực và hợp tác. Việt Nam chưa có nhiều công ty công nghệ đạt được quy mô lớn và có ảnh hưởng toàn cầu.

Có thể kể ra một số thách thức chính về hệ sinh thái số của Việt Nam. Đó là việc thiếu vốn đầu tư, kể cả vốn mạo hiểm và vốn dài hạn; thiếu nhân lực chất lượng cao và khó khăn thu hút giữ chân nhân tài; hạ tầng số dù nhiều cải thiện nhưng vẫn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu; một số quy định pháp lý của môi trường kinh doanh còn chưa rõ ràng, thủ tục hành chính rườm rà; kết nối giữa doanh nghiệp, nhà đầu tư, trường, viện còn hạn chế.

Thứ năm, hiện trạng và thách thức về năng lực nội sinh.

Năng lực nội sinh là yếu tố quyết định thành công trong quá trình chuyển đổi số và xác lập phương thức sản xuất số. Năng lực nội sinh của Việt Nam trong chuyển đổi sang sản xuất số đang dần được hình thành và phát triển, thể hiện qua việc gia tăng số lượng doanh nghiệp công nghệ, sự phát triển của nguồn nhân lực kỹ thuật số và thành tựu nghiên cứu ở một số tập đoàn công nghệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức về năng lực nội sinh cho sản xuất số.

(1) Năng lực nghiên cứu và phát triển. Tuy lực lượng khoa học và công nghệ khá đông đảo, nhưng phần lớn tập trung ở các trường đại học và viện nghiên cứu, đóng góp trực tiếp còn hạn chế cho hoạt động sản xuất. Còn hạn chế trong việc định ra những mục tiêu nghiên cứu lớn, đáp ứng nhu cầu cao của sản xuất, cần sự tham gia của các nhà khoa học giỏi.

(2) Năng lực đổi mới sáng tạo. Văn hóa đổi mới sáng tạo chưa được phát triển mạnh, còn thiếu cơ chế khuyến khích và hỗ trợ sáng tạo. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thụ động trong việc áp dụng công nghệ số.

(3) Năng lực công nghệ. Chúng ta còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ nước ngoài do khả năng làm chủ và phát triển công nghệ còn hạn chế, đặc biệt là các công nghệ số nền tảng, như AI, IoT, dữ liệu lớn. Năng lực quản lý R&D, năng lực tài chính cũng là những thách thức cho năng lực nội sinh trong xác lập phương thức sản xuất số.

Năng lực nội sinh là yếu tố quyết định sự thành công của Việt Nam trong việc xác lập phương thức sản xuất số, từ đó nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong kỷ nguyên số. Việc xây dựng và phát triển năng lực nội sinh là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, xã hội.

Như vậy, có thể so sánh việc xây dựng hạ tầng số cũng quan trọng như xây hạ tầng giao thông, nhưng lâu dài và phức tạp hơn. Những yếu tố quyết định thành bại của một đất nước trên con đường phát triển chính là nguồn nhân lực số và năng lực nội sinh. Thể chế có thể là “điểm nghẽn”, cũng có thể khai thông sản xuất tùy vào mức độ hoàn thiện. Một hệ sinh thái số là môi trường để sản xuất số được rộng khắp và bền vững.

Khuyến nghị một số giải pháp xác lập phương thức sản xuất số

Để xác lập phương thức sản xuất số, cần chú ý một số khuyến nghị sau:

Một làđẩy mạnh sự phục vụ của khoa học và công nghệ cho sản xuất. Cần có chiến lược và quy hoạch hợp lý để nền khoa học và công nghệ hàn lâm của Việt Nam gắn bó và phục vụ hiệu quả hơn cho sản xuất. Ngay ở các nước phát triển, việc đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng với sản phẩm là các bài báo cũng thường chỉ đạt dưới 40% (Mỹ khoảng 19% và 20%, Nhật khoảng 14,5% và 23%); trong khi đó, đầu tư cho nghiên cứu phát triển để tìm ra tri thức làm sản phẩm ở hai quốc gia này đều trên 60%. Nhìn trở lại việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ ở nước ta lâu nay, phần lớn làm các nghiên cứu nhỏ, hướng đến đầu ra của sản phẩm là các bài báo. Do đó, cần thay đổi sâu sắc cấu trúc và phân bổ lực lượng khoa học và công nghệ; cần đặt ra những “bài toán lớn” của đất nước để đi tìm “lời giải” của khoa học và công nghệ; tập trung, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài và những lực lượng có liên quan tham gia giải quyết, chủ trì và chịu trách nhiệm bởi các tổng công trình sư (hoặc tập thể công trình sư)…

Hai làđầu tư chọn lọc vào nghiên cứu và phát triển các công nghệ lõi. Đây là các công nghệ nền tảng, căn bản của mỗi lĩnh vực công nghệ, từ đó có cơ sở, căn cứ để nghiên cứu, chế tạo và phát triển các công nghệ ứng dụng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lựa chọn một số công nghệ lõi cần thiết nhất cho sản xuất ở các lĩnh vực để theo đuổi, trong đó có việc làm chủ được “phần lõi” của các công nghệ số quan trọng, như trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối…

Ba là, phát triển các giải pháp công nghệ ứng dụng phù hợp. Trên cơ sở làm chủ các công nghệ lõi chọn lọc, cần huy động, tổ chức nguồn nhân lực để nghiên cứu và phát triển các giải pháp công nghệ ứng dụng để chế tạo được các sản phẩm và dịch vụ phục vụ nhu cầu cụ thể của con người. Cần xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo mạnh mẽ và rộng khắp.

Bốn làphát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh việc phát triển nguồn nhân lực số ở diện rộng, điều quan trọng là phải xây dựng được lực lượng có trình độ khoa học và công nghệ ở mức cao, được đào tạo bài bản tại một số cơ sở hàng đầu của đất nước. Có cơ chế, chính sách đãi ngộ và đặc thù đối với một số trường đại học hàng đầu nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực số chất lượng cao nói trên. Đặc biệt, cần có cơ chế thu hút, khuyến khích đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia và đóng góp cho đất nước, để họ thật sự trở thành một phần của năng lực nội sinh quốc gia. Kinh nghiệm từ trường hợp Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán (VIASM) do GS Ngô Bảo Châu làm “kiến trúc sư trưởng”, với một nguồn kinh phí khiêm tốn hằng năm, đã bền bỉ hơn 10 năm qua kết nối lực lượng toán học trong nước và ngoài nước, gắn kết nhiều nhà toán học giỏi trong nước cống hiến cho nền toán học nước nhà. Hầu hết các nhà toán học người Việt Nam xuất sắc ở nước ngoài đều trở về đây tham gia Chương trình phát triển toán học của Việt Nam, bên cạnh những chuyến đến VIASM làm việc thường xuyên của nhiều nhà toán học hàng đầu thế giới. Đây là bài học đáng tham khảo và cần nhân rộng.

Năm là, xây dựng nền tảng số quốc gia, gồm việc tự phát triển các nền tảng số lõi để phục vụ sản xuất và quản lý dữ liệu, phát triển các nền tảng về dữ liệu, hạ tầng kết nối, an ninh mạng... phục vụ cho các ngành sản xuất và các lĩnh vực kinh tế khác; xây dựng các tiêu chuẩn và quy chuẩn về công nghệ số để bảo đảm tính tương thích và kết nối giữa các hệ thống, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển các nền tảng số riêng, phù hợp với đặc thù ngành nghề.

Sáu là, nâng cao năng lực chuyển giao công nghệLà nước đi sau nên việc tiếp thu và sử dụng được các công nghệ tiến tiến nước ngoài cần cho sản xuất là nhiệm vụ hàng đầu của khoa học và công nghệ Việt Nam. Cần xây dựng cơ chế hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ viện nghiên cứu, doanh nghiệp lớn sang doanh nghiệp nhỏ, phát triển quỹ đầu tư công nghệ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận và ứng dụng công nghệ số, khuyến khích hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực AI, tự động hóa, sản xuất thông minh.

Bảy là, tiếp cận công nghệ nước ngoài. Cần tham gia vào các mạng lưới hợp tác quốc tế về công nghệ số, sản xuất thông minh, thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển về phát triển năng lực số. Trong vấn đề này, vai trò của đội ngũ trí thức người Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài là rất quan trọng.

Tám là, phát triển các mối quan hệ hợp tác và học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài. Quá trình xây dựng năng lực số nội sinh không thể thiếu các mối quan hệ hợp tác khoa học, công nghệ và giáo dục với các nước tiên tiến. Bên cạnh các nỗ lực xây dựng các trường đại học, các viện nghiên cứu có sự phối hợp của nước ngoài, chúng ta cần nghiên cứu, chắt lọc và học hỏi kinh nghiệm phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là các công nghệ lõi, từ các nước có sự gần gũi về văn hóa và địa chính trị, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... để từ đó tìm ra phương cách phù hợp cho Việt Nam.

Như vậy, nguồn nhân lực số và năng lực số nội sinh là những yếu tố quyết định thành bại của một đất nước trên đường phát triển trong kỷ nguyên số. Thể chế có thể làm nghẽn và cũng có thể khai thông sản xuất tùy vào sự hoàn thiện. Một hệ sinh thái số là môi trường để sản xuất số được rộng khắp và bền vững. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” đề cập đến ba yếu tố then chốt, đó là khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số(9). Nhìn một cách tổng thể trong mối liên hệ của ba yếu tố này có thể thấy, chuyển đổi số là công việc tất yếu phải làm và là đích đến; khoa học và công nghệ là con đường, công cụ để đi tới đích; đổi mới sáng tạo là phương pháp và cách đi, tùy thuộc nhiều vào yếu tố con người./.

-------------------

(1) Schwab K: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2016 (Bản dịch từ The Fourth Industrial Revolution, World Economic Forum (14-1-2016)
(2) Xem: GS, TS Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 2-9-2024, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-
(3) Môi trường thực - số là môi trường vật lý và xã hội ta đang sống trên đó mỗi thực thể (đối tượng, hệ thống, quá trình sản xuất,...) được số hóa tạo ra bản sao số (dữ liệu), liên tục được cập nhật và phản ánh trạng thái, hoạt động, và hiệu suất của thực thể đó. Nhờ tích hợp sâu của các công nghệ số vào môi trường này, các bản sao số được dùng để mô phỏng, theo dõi, phân tích, và tối ưu hiệu suất của các thực thể. Mọi thực thể vật lý và xã hội có thể kết nối được với nhau qua mạng internet nhờ các bản sao số của mình (internet vạn vật).
(4) Dữ liệu là kết quả quan sát, đo đạc, ghi chép, thu thập dưới dạng các con số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh về các sự kiện, hiện tượng, thuộc tính của thiên nhiên và hoạt động của  con người. Thông tin là nghĩa của dữ liệu, có được từ quá trình xử lý dữ liệu. Tri thức, tức những hiểu biết đã được kiểm chứng, có được do tích hợp thông tin và nối với kiến thức, trải nghiệm và kinh nghiệm của con người.
(5) Công nghệ số là tập hợp tri thức, công cụ, giải pháp và phương pháp để số hóa, thu thập, lưu trữ, xử lý và truyền tải dữ liệu, giúp tạo ra giá trị mới và kết nối chặt chẽ giữa thế giới các thực thể và thế giới số. Công nghệ số không ngừng phát triển, từ các công nghệ số nền tảng, như internet vạn vật, điện toán đám mây, AI đến các công nghệ số chuyên ngành, như Fintech, BIM, Medtech, Edtech.
(6) Trí tuệ nhân tạo (AI) là lĩnh vực làm cho máy có được những năng lực trí tuệ của con người, như các năng lực nhận thức, suy luận, học tập, sáng tạo, giải quyết vấn đề. Cho đến nay, AI đã trải qua gần 70 năm phát triển với những chặng đường nhiều thành bại, và trong khoảng một thập kỷ qua đã đạt những thành tựu đột phá, tiêu biểu là sự xuất hiện của AI tạo sinh. Tuy nhiên, cần sử dụng AI tạo sinh một cách hài hòa với những phương pháp AI dự đoán, được phát triển trong lĩnh vực học máy để tạo ra tri thức từ dữ liệu, phù hợp với thực tế dữ liệu của đa số tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
(7) Xem thêm: Hồ Tú Bảo, Nguyễn Huy Dũng, Nguyễn Nhật Quang: Hỏi đáp về Chuyển đổi số,  Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2020
(8) Xem thêm: Hồ Tú Bảo, Nguyễn Huy Dũng, Nguyễn Nhật Quang: Hỏi đáp về Chuyển đổi số, Sđd
(9) Xem: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”