Xây dựng đội ngũ nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp trong kỷ nguyên số
Để thực hiện hiệu quả công tác ngoại giao công nghệ trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhân sự cụ thể và kế hoạch đào tạo, tập huấn rõ ràng để xây dựng đội ngũ nguồn lực nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp, có tính liên ngành, có năng lực và hiểu biết công nghệ và nắm rõ chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng thương thuyết và đàm phán.
Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với việc nhanh chóng tiếp thu, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới… là mục tiêu mang nhiều ý nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh cả hệ thống chính trị đang mạnh mẽ đưa Nghị quyết số 57-NQ/TƯ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 59-NQ/TƯ về hội nhập quốc tế trong tình hình mới vào cuộc sống. Với nền tảng và nguồn lực hiện tại, ngoại giao công nghệ là cánh cửa mới để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên số của nhân loại.
Theo đó, để thực hiện hiệu quả công tác ngoại giao công nghệ trong thời gian tới, Việt Nam cần xây dựng các tiêu chí đánh giá, lựa chọn nhân sự cụ thể và kế hoạch đào tạo, tập huấn rõ ràng để xây dựng đội ngũ nguồn lực nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp, có tính liên ngành, có năng lực và hiểu biết công nghệ và nắm rõ chiến lược phát triển công nghệ của quốc gia, khả năng thương thuyết và đàm phán.

Xây dựng đội ngũ nhân sự ngoại giao công nghệ chuyên nghiệp trong kỷ nguyên số. (Ảnh minh họa)
Bộ KH&CN đưa ra một số đề xuất về công tác phát triển nguồn nhân lực trong ngoại giao công nghệ, cụ thể như sau: Thứ nhất, về năng lực nhân sự cốt lõi, bao gồm: Cán bộ có hiểu biết về công nghệ chiến lược (AI, bán dẫn…), có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu và triển khai xúc tiến R&D, thu hút trung tâm công nghệ; Chuyên gia về xây dựng chính sách & pháp chế am hiểu luật sở hữu trí tuệ, kiểm soát xuất khẩu - nhập khẩu, thẩm định và giám định công nghệ;
Nhà khoa học được đào tạo tại nước ngoài, có kinh nghiệm kết nối hợp tác giữa viện/trường và đối tác nước ngoài để triển khai dự án nghiên cứu chung; Cán bộ hợp tác quốc tế tốt ngoại ngữ, có kinh nghiệm quản lý dự án hợp tác công nghệ hoặc nghiên cứu chung với nước ngoài.
Thứ hai, về năng lực trọng tâm cần phát triển: Kiến thức và hiểu biết về các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (AI, công nghệ sinh học, robot); Kỹ năng đàm phán thương mại - công nghệ; Đánh giá rủi ro công nghệ & an ninh; Kỹ năng ngoại giao xây dựng và kết nối mạng lưới, vận động chính sách, quản lý dự án quốc tế; Ngôn ngữ chuyên ngành (Anh + ngôn ngữ đối tác trọng điểm), hiểu biết văn hoá kinh doanh.
Thứ ba, về chính sách phát triển nguồn nhân lực: Tuyển chọn - kết hợp tuyển từ ngoại giao truyền thống và tuyển đặc thù từ các đơn vị của Bộ KH&CN, các Trường Đại học/Viện nghiên cứu; Đào tạo cấp tốc về kỹ thuật cơ bản + sở hữu trí tuệ + thương thảo quốc tế + thẩm định, giám định công nghệ + an ninh công nghệ; Hệ thống khuyến khích bao gồm mức đãi ngộ cạnh tranh, phụ cấp công tác nước ngoài;
Bộ KH&CN hiện đang có 23 Văn phòng đại diện KH&CN của Bộ tại 19 quốc gia, Văn phòng đại diện KH&CN chính là cánh tay nối dài của Bộ, là cầu nối chiến lược giữa hệ thống nghiên cứu, đổi mới của Việt Nam và hệ sinh thái công nghệ toàn cầu. Các Văn phòng đại diện KH&CN vừa làm nhiệm vụ ngoại giao kỹ thuật, vừa khảo sát và thăm dò thị trường, tìm kiếm và hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thu hút nguồn lực, góp phần trực tiếp nâng cao năng lực nội sinh và vị thế quốc gia.
