Doanh nghiệp cần chủ động tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực
Theo TS Nguyễn Hoàng Hà, doanh nghiệp cần chủ động tích cực tham gia vào quá trình đào tạo, phát triển kỹ năng, xây dựng mô hình đào tạo kép, và đầu tư vào nhân lực như một chiến lược phát triển dài hạn.
Tại Diễn đàn của Quốc hội về hoạt động giám sát với chủ đề “Giám sát của Quốc hội để kiến tạo phát triển”, nhiều ý kiến đã đề cập đến các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao.
Chất lượng lao động còn thấp
Trong tham luận gửi đến Diễn đàn, TS Nguyễn Hoàng Hà, Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam cho hay, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính rằng, Việt Nam sẽ cần tăng trưởng năng suất hằng năm ít nhất 4,5 phần trăm để đạt được trạng thái thu nhập cao vào năm 2050.
Trong đó, chất lượng lao động là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định tăng trưởng năng suất lao động. Khoa học kỹ thuật công nghệ càng phát triển, máy móc thiết bị càng hiện đại thì càng đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn tương ứng.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chất lượng lao động ở Việt Nam vẫn còn thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số ngành dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thông tin viễn thông, du lịch) và công nghiệp mới.
Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Việc hiểu biết sâu sắc về xu hướng việc làm và dự báo cho các lĩnh vực kinh tế là rất quan trọng giúp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình dự đoán nhu cầu về kỹ năng, từ đó có thể đưa ra các chính sách và khoản đầu tư có mục tiêu vào giáo dục và đào tạo.
Theo bản tin thị trường lao động Quý I/2025, cả nước có 51,9 triệu người có việc làm trong tổng số 52,9 triệu người tham gia lực lượng lao động, tăng 532,1 nghìn người so với thống kê cùng kỳ năm ngoái.
![]() |
Doanh nghiệp cần chủ động tích cực tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực. Ảnh: Hoàng Phúc |
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ chiếm 28,8% thiếu cả về số lượng và trình độ chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhiều việc làm mới vẫn là lao động giản đơn, thời vụ và không ổn định…
Từ thực tiễn trên, TS Nguyễn Hoàng Hà cho rằng, Quốc hội cần tiếp tục dẫn dắt tư duy cải cách, hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho giáo dục, đào tạo và sử dụng nhân lực chất lượng cao.
Thông qua các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định ngân sách, Quốc hội có thể tạo động lực mạnh mẽ cho các chương trình phát triển nhân lực quốc gia, đặc biệt trong các ngành mũi nhọn như công nghệ số, bán dẫn, y tế, giáo dục.
Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào giáo dục - đào tạo, phát triển hệ thống dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, và thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục và dạy nghề.
Đáng quan tâm, theo TS Nguyễn Hoàng Hà, doanh nghiệp cần chủ động tích cực tham gia vào quá trình đào tạo, phát triển kỹ năng, xây dựng mô hình đào tạo kép, và đầu tư vào nhân lực như một chiến lược phát triển dài hạn.
Các cơ sở đào tạo cần tiếp tục đổi mới chương trình, tăng cường thực hành, hợp tác với doanh nghiệp và quốc tế hóa giáo dục để nâng cao chất lượng đầu ra…
Hoàn thiện chuẩn đánh giá kỹ năng, trình độ của người lao động
Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng Nguyễn Thị Việt Nga chỉ ra một số hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đó là nhân lực chất lượng cao chỉ chiếm khoảng 12% tổng lực lượng lao động, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan (khoảng 20%) hay Malaysia (trên 30%). Bên cạnh đó, chất lượng chưa đồng đều: Kỹ năng ngoại ngữ, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế và tư duy đổi mới sáng tạo còn là điểm yếu. Tỷ lệ lao động có kỹ năng số cơ bản chỉ khoảng 40%, và kỹ năng số nâng cao còn thấp hơn nhiều.
Đồng thời, khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn vẫn tồn tại. Nhiều sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc thực tế, trong khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân lực đạt yêu cầu. Hiện tượng “thừa thầy, thiếu thợ” vẫn chưa được khắc phục triệt để…
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga cho rằng, cần hoàn thiện khung pháp lý về chuẩn đánh giá kỹ năng, trình độ của người lao động. Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng quy trình công nhận năng lực từ các loại hình học tập đa dạng (trong đó có tự học và các hình thức đào tạo phi chính quy khác), trong đó khung trình độ quốc gia là căn cứ để xếp loại, công nhận trình độ của người học.
Tại Việt Nam, Luật Giáo dục Nghề nghiệp (2014) có quy định các hình thức học tập đa dạng: Chính quy, phi chính quy và không chính quy với ba trình độ trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp (sơ cấp, trong cấp, cao đẳng) và hai hình thức đào tạo là chính quy và thường xuyên.
Luật quy đinh công nhận kiến thức, kỹ năng tích lũy từ kinh nghiệm làm việc để miễn học lại (người đứng đầu cơ sở đào tạo, dựa trên chương trình đào tạo để ra quyết định miễn môn học). Tuy nhiên, trên thực tế lại rất khó khăn để triển khai, bởi chưa có một khung quy đổi tri thức có sẵn của người học thành văn bằng, chứng chỉ được công nhận.
Theo nữ đại biểu, yêu cầu đặt ra là phải tích hợp “Tiêu chuẩn kỹ năng nghề” và “Khung trình độ quốc gia” thành một chuẩn năng lực thống nhất, có như thế mới giúp người học dễ dàng thực hiện học liên thông, và có thể đánh giá chính xác kỹ năng, trình độ của người học ở hình thức học tập phi chính quy.
Đồng thời, một vấn đề quan trọng là cần quan tâm lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay cần gì? Từ đó hoạch định các chính sách hỗ trợ cũng như các chiến lược ngắn hạn, dài hạn về nhân lực chất lượng cao để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh mẽ hơn. “Không thể có những doanh nghiệp phát triển, thành công nếu như các doanh nghiệp đó thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao”, bà Nga nói.