PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: 1 trong 100 nhà khoa học xuất sắc nhất châu Á
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan trở thành viên ngọc sáng của ngành y sinh, mang lại nhiều trang sử mới cho bệnh nhân hiếm muộn.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cả bố lẫn mẹ đều làm trong ngành y, từ nhỏ PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (con gái của GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Nguyên Giám đốc BV Từ Dũ) đã nuôi dưỡng ước mơ được khoác trên mình chiếc áo blouse trắng. Năm 1997, sau khi tốt nghiệp thủ khoa trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, chị tình nguyện đến BV Từ Dũ để phụ giúp mẹ những công việc lặt vặt.
Đúng thời điểm này, đoàn chuyên gia từ Pháp sang Việt Nam để hỗ trợ thực hiện những ca thụ tinh ống nghiệm đầu tiên (IVF). Nhờ sự chỉn chu, tỉ mẩn và thận trọng trong công việc, chị vinh dự trở thành một trong những bác sĩ Việt Nam đầu tiên được tham gia vào ê kíp thực hiện thụ tinh ống nghiệm.
PGS.TS Vương Ngọc Lan nhớ lại, trong lần thụ tinh ống nghiệm ấy, 1 trong 3 em bé đầu tiên đã được đặt tên là Phạm Tường Lan Thy, dựa theo tên của chị và bác sĩ Hồ Mạnh Tường (thành viên thứ 2 trong ê kíp và cũng là chồng chị sau này) như một sự biết ơn, tri ân của đôi vợ chồng trẻ.
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan được mệnh danh là “bà mẹ trẻ của ngàn đứa con”. Ảnh: @Google.
“Chứng kiến mỗi gia đình vỡ òa hạnh phúc đón con vào lòng, tôi và đồng nghiệp đều không ngăn được xúc động. Đó cũng là động lực để tôi tiếp tục nỗ lực, hỗ trợ những đôi vợ chồng hiếm muộn hoàn thành ước nguyện sinh con”- PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan chia sẻ.
Tâm huyết là thế, tuy nhiên trong thời gian đầu kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đậu thai thụ tinh ống nghiệm tại Việt Nam còn rất thấp khiến chị và đồng nghiệp luôn luôn trăn trở.
"Nhìn cảnh các cặp vợ chồng hy vọng rồi thất vọng, thậm chí nhiều gia đình tan vỡ sau quá nhiều lần thụ tinh ống nghiệm không thành công, tim tôi như thắt lại, đau xót vì chưa giúp được họ như tâm nguyện. Mỗi lần như vậy, tôi và các bác sĩ khác tại Khoa Hiếm muộn - BV Từ Dũ không buông tay mà nỗ lực hơn nữa, dần dần đã nâng tỷ lệ này lên 20%, 30%, rồi 40%... Những nụ cười đã nhân lên gấp nhiều lần và trọn vẹn hơn trước…”, chị xúc động nói.
Trong 20 năm qua, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan đã điều trị trực tiếp cho hơn 20.000 cặp vợ chồng hiếm muộn. Cũng vì thế mà chị được nhiều người gọi bằng cái tên thân thương là “bà mẹ trẻ của ngàn đứa con”.
Chân dung PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan: Người thắp sáng cho bệnh nhân hiếm muộn. Ảnh: @Google.
Từ những nỗ lực và thành quả đã đạt được, tên tuổi của thụ tinh ống nghiệm Việt Nam dần được quốc tế công nhận, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan được mời đi nhiều hội thảo quốc tế báo cáo về những kết quả của thụ tinh ống nghiệm Việt Nam.
Với tham vọng đưa tên tuổi của IVF Việt Nam đứng ngang hàng với các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Pháp, chị đã lên ý tưởng và thực hiện nghiên cứu, so sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ đông trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Sau 4 năm dày công nghiên cứu, năm 2018, công trình nghiên cứu mang tên “So sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ đông trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm” đã được đăng tải trên Tạp chí Y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) - một trong những tạp chí y khoa có uy tín và có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới hiện nay.
Mỗi tuần có hàng ngàn bài báo trên khắp thế giới được gửi về tạp chí và phải trải qua nhiều vòng đánh giá, sàng lọc, phản biện. Chỉ 5% tổng số bài gửi về là được xuất bản. Vì vậy, đây là sự kiện gây nên tiếng vang lớn, bởi là lần đầu tiên, một nghiên cứu do người Việt Nam chủ trì được đăng trên tạp chí này.
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết, khi mới bắt đầu làm thụ tinh ống nghiệm, mỗi lần thụ tinh sẽ cho khoảng 5-7 phôi. Lúc đó kỹ thuật đông lạnh phôi chưa phát triển nên các bác sĩ trên thế giới tiến hành chuyển phôi tươi. Nếu sử dụng số phôi quá ít thì tỉ lệ có thai sẽ không cao, do đó các bác sĩ chuyển tăng số phôi tươi vào buồng tử cung cho bệnh nhân, tỉ lệ thành công tăng lên, nhưng đồng nghĩa với nguy cơ đa thai cũng cao hơn.
Cho đến khi kỹ thuật đông lạnh hoàn chỉnh, nhiều trung tâm trên thế giới nhận thấy kỹ thuật này giúp tăng tỉ lệ mang thai nên không thực hiện chuyển phôi tươi nữa mà đông lạnh toàn bộ số phôi có được và chuyển phôi rã đông sau đó. Thế nhưng, việc dùng phôi đông lạnh vô tình kéo dài thêm thời gian chờ đợi của các cặp vợ chồng, chi phí cũng tăng theo.
Nhóm của chị đã nghiên cứu ngẫu nhiên 782 phụ nữ vô sinh (không do buồng trứng đa nang) đang thụ tinh ống nghiệm. Kết quả cho thấy, việc chuyển phôi đông lạnh mang lại kết quả thành công tương đương như chuyển phôi tươi khi thụ tinh ống nghiệm.
PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: “Công trình nghiên cứu của chúng tôi là công trình nghiên cứu đầu tiên trên thế giới chứng minh việc chuyển phôi đông lạnh có hiệu quả tương đương với chuyển phôi tươi trên bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm mà không bị hội chứng buồng trứng đa nang”.
Công trình này khi được công bố trên tạp chí NEJM đã góp phần làm thay đổi thực hành thụ tinh trong ống nghiệm trên thế giới. “Chúng ta có thể đông lạnh phôi lại và giảm số phôi chuyển xuống, mỗi lần chỉ cần chuyển 1 phôi. Phương pháp này giảm nguy cơ kích thích buồng trứng, giảm nguy cơ đa thai cho bệnh nhân”, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan cho biết thêm.
Chân dung PGS.TS Vương Ngọc Lan. Ảnh: @Google.
Nói về ý nghĩa của công trình, chị cho biết mỗi năm trên thế giới là có khoảng 2 triệu trường hợp có nhu cầu thụ tinh trong ống nghiệm và có khoảng 3 triệu trường hợp thực hiện chuyển phôi. Tại Việt Nam, mỗi năm ước tính có khoảng 30.000 trường hợp thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và 40.000 trường hợp thực hiện chuyển phôi. Vì vậy, việc tìm ra câu trả lời về phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm giúp cho bác sĩ và bệnh nhân có định hướng rõ ràng để việc chuyển phôi được thực hiện đạt hiệu quả cao nhất.
Một đóng góp nữa của công trình là triển khai thành công kỹ thuật thủy tinh hóa trong thực hiện đông lạnh phôi, đây là một quy trình kỹ thuật khá mới mẻ nâng cao tỉ lệ sống của phôi sau rã đông, cao đến khoảng 99%. Bên cạnh đó, công trình đã xây dựng được đội ngũ thực hiện nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng một cách chuẩn mực, theo đúng chuẩn quốc tế. Đây cũng là một trong ba công trình nghiên cứu được trao tặng giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2020. Với kết quả này, PGS. TS Vương Thị Ngọc Lan đã trở thành nhà khoa học nữ thứ hai và cũng là đại diện thứ hai của ngành y sinh được vinh danh trong giải thưởng sáng giá nhất của khoa học Việt Nam.
Tạp chí Asian Scientist - tạp chí khoa học uy tín hàng đầu Châu Á - vừa công bố danh sách 100 nhà khoa học xuất sắc nhất Châu Á năm 2021, có thành tựu nghiên cứu những vấn đề cấp bách về biến đổi khí hậu, đại dịch COVID-19, có thành tích trong phát hiện khoa học hoặc là người dẫn đầu trong lĩnh vực đó. Việt Nam đóng góp 5 gương mặt trong danh sách này, trong đó, PGS.TS.BS Vương Thị Ngọc Lan được vinh danh ở lĩnh vực Khoa học Y sinh. |
Theo/kienthuc.net.vn