Phát triển các công nghệ xanh, năng lượng tái tạo phục vụ kinh tế biển

16:42, 06/10/2025

Nghiên cứu, phát triển công nghệ xanh, năng lượng tái tạo phục vụ kinh tế biển; công nghệ kiểm soát và xử lý ô nhiễm biển; Ứng dụng công nghệ tiên tiến, đột phá (như AI, dữ liệu lớn, IoT) hỗ trợ công tác phục hồi, tái tạo, quan trắc và bảo vệ tài nguyên môi trường biển, đảo, quan trắc và cảnh báo thiên tai, biến đổi khí hậu...

Thúc đẩy nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển” giai đoạn 2025-2030.

Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong Kế hoạch triển khai Cam kết tự nguyện của Việt Nam “Thúc đẩy nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế biển” giai đoạn 2025-2030 vừa được Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.

Kế hoạch nhằm cụ thể hóa cam kết tự nguyện của Việt Nam tại Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ ba (UNOC-3) ngày 12/6/2025 thành các nội dung nhiệm vụ khoa học và công nghệ thiết thực, có khả năng đo lường, đồng thời tăng cường chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện, tình hình thực tiễn của Bộ để  bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế biển. Kế hoạch đề ra ba nhóm nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, phát triển khoa học và công nghệ biển làm nền tảng cho tiếp thu, làm chủ công nghệ tiên tiến. Theo đó, tập trung nghiên cứu cơ bản và ứng dụng về hệ sinh thái, sinh học biển, tai biến thiên nhiên (bão, sóng thần, động đất); ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, Internet vạn vật (IoT) trong quan trắc, phục hồi tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và ứng phó biến đổi khí hậu;

Khai thác, phát triển bền vững kinh tế biển.

Nghiên cứu phát triển công nghệ xanh, năng lượng tái tạo phục vụ kinh tế biển, công nghệ kiểm soát và xử lý ô nhiễm; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong khai thác, nuôi trồng, dịch vụ biển theo hướng xanh và bền vững.

Thứ hai, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tăng cường hợp tác với các đối tác chiến lược; lồng ghép mục tiêu nghiên cứu biển vào các cơ chế song phương, đa phương với các đối tác như Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, UNESCO/IOC, EU…

Thúc đẩy ngoại giao khoa học, nâng cao vị thế Việt Nam trong các sáng kiến toàn cầu về đại dương. Thúc đẩy vai trò của ủy ban Hải dương học liên Chính phủ Việt Nam (IOC VN) trong việc nâng cao hiểu biết và hợp tác nghiên cứu về đại dương, giảm thiểu rủi ro thiên tai, và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đẩy mạnh chuyển đổi số trong khoa học và công nghệ biển; phát triển đội ngũ nhà khoa học, nhất là nhà khoa học trẻ qua các chương trình tài trợ, hỗ trợ của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia;

 Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực số cho khoa học biển: tổ chức các khóa tập huấn về khoa học dữ liệu, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo ứng dụng trong nghiên cứu biển; hỗ trợ các nhóm nghiên cứu liên ngành gắn kết giữa viện nghiên cứu và trường đại học.

Việc triển khai Kế hoạch được kỳ vọng góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo vệ môi trường biển, khẳng định vai trò chủ động, trách nhiệm của Việt Nam trong thực hiện các cam kết quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển.