Tri thức, sáng tạo và công nghệ: Nền tảng để Việt Nam vươn lên

12:43, 02/06/2025

Việc xây dựng một không gian phát triển kinh tế mới, dựa trên nền tảng công nghệ, sáng tạo và số hóa là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam không chỉ vượt qua bẫy thu nhập trung bình, mà còn hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045...

Tại hội thảo “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Yếu tố quyết định để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045” mới đây, TS.Nguyễn Xuân Khoát, Chánh Văn phòng Viện Kinh tế và Pháp luật Quốc tế, nhận định rằng kinh tế Việt Nam năm 2024 đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng 7,09%, tiếp tục là điểm sáng trong khu vực châu Á.

Tuy nhiên, bước sang năm 2025, Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều thách thức mới như suy giảm tăng trưởng toàn cầu, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng và cuộc đua đổi mới sáng tạo giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt.

Khung chính sách hỗ trợ đổi mới chưa mạnh 

Theo TS.Nguyễn Xuân Khoát, để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 – một mục tiêu đầy tham vọng nhưng cần thiết, Việt Nam cần có những giải pháp đột phá mang tính nền tảng. Trong đó, con đường duy nhất đúng đắn để phát triển hiện nay là dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Đồng tình với nhận định trên, song TS.Nguyễn Hữu Xuyên, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ, cho rằng tiềm năng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam chưa được khai thác tương xứng với vai trò chiến lược của chúng trong việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng. Hệ thống pháp luật, quy định chưa đồng bộ giữa các luật khoa học và công nghệ, tài chính công, đầu tư công và ngân sách.

Mặt khác, nguồn nhân lực công nghệ cao còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Thiếu chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ lõi, công nghệ số. Cơ sở hạ tầng số chưa đáp ứng nhu cầu. Còn có khoảng cách lớn giữa chính sách – doanh nghiệp – thị trường.

Bên cạnh đó, các cơ chế thử nghiệm như sandbox còn thiếu hướng dẫn cụ thể. Đặc biệt, phần lớn doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới hạn chế và thiếu văn hóa đổi mới sáng tạo.

PGS.TS.Nguyễn Ngọc Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sáng tạo (Trường Đại học Ngoại thương), cũng cho rằng đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ là chiến lược sống còn trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực như tăng hạng trên bảng GII, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và thu hút doanh nghiệp công nghệ quốc tế.

Tuy nhiên, mức đầu tư cho R&D (nghiên cứu và phát triển) còn thấp, chỉ chiếm khoảng 0,42% GDP, thấp xa so với các quốc gia phát triển. Điều đáng nói, doanh nghiệp trong nước phần lớn chưa nhận thức đúng vai trò chiến lược của R&D, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu chiều sâu. Thiếu nhân lực công nghệ cao, kỹ năng thực hành và ngoại ngữ yếu, giáo dục STEM còn nhiều thách thức.

Bên cạnh đó, khung chính sách hỗ trợ đổi mới chưa mạnh, còn bất cập, thủ tục hành chính rườm rà, cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ yếu kém, khiến doanh nghiệp thiếu động lực để đổi mới liên tục. Chuyển giao công nghệ mang tính cục bộ, thiếu liên kết giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp, thẩm định công nghệ yếu.

Ở góc độ khác, TS.Dương Thị Kim Liên, Viện trưởng Viện Hỗ trợ đổi mới sáng tạo doanh nghiệp, nhấn mạnh: “Để hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam buộc phải tạo ra những đột phá chiến lược, trong đó nâng cao năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng là hai trọng tâm cốt lõi”.

Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), năng suất lao động của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 199,3 triệu đồng/lao động, tương đương 8.380 USD/người/năm. Trong khi đó, năng suất lao động của Singapore cao hơn chúng ta 10 lần; Hàn Quốc cao hơn 9,4 lần; Trung Quốc cao hơn 3 lần; Thái Lan cao hơn gần 2 lần.

“Khoảng cách năng suất lớn phản ánh rõ những hạn chế về năng lực công nghệ, kỹ năng lao động và hiệu quả quản trị tại các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân”, TS.Dương Thị Kim Liên nêu thực tế.

Tri thức, sáng tạo và công nghệ - 3 trụ cột để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.

Cần cải cách toàn diện thể chế 

Dẫn số liệu từ Báo cáo Chuyển đổi số doanh nghiệp Việt Nam 2023, TS.Dương Thị Kim Liên cho biết chỉ khoảng 15% doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai các ứng dụng số cơ bản như phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử, thương mại điện tử; chưa đến 3% có kế hoạch đầu tư bài bản vào trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn hoặc sản xuất thông minh.

Trong khi đó, ứng dụng AI và công nghệ chiến lược không còn là lựa chọn, mà là con đường bắt buộc nếu Việt Nam muốn thu hẹp khoảng cách năng suất, nâng cao giá trị gia tăng và vươn lên cạnh tranh ở tầm khu vực và toàn cầu.

Theo PGS.TS.Nguyễn Ngọc Hà, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp, Việt Nam cần cải cách toàn diện thể chế, cải cách pháp luật đồng bộ, đơn giản hóa thủ tục, thúc đẩy cơ chế thí điểm và chấp nhận rủi ro trong đổi mới... Rà soát, sửa đổi pháp luật, thúc đẩy cơ chế thí điểm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phân bổ nguồn lực tập trung. Triển khai chiến lược phát triển nhân lực chất lượng cao, đổi mới giáo dục STEM, thu hút và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực công nghệ cao.

Đồng thời, nâng cao năng lực doanh nghiệp, thúc đẩy và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh cho R&D, xây dựng văn hóa đổi mới và phát triển hệ sinh thái liên kết ba nhà: Nhà nước – doanh nghiệp – nhà trường. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế: tăng cường hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các quốc gia phát triển, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ.

Đối với doanh nghiệp, PGS.TS.Nguyễn Ngọc Hà khuyến nghị cần nhận thức R&D là đầu tư chiến lược, do đó chủ động dành nguồn lực cải tiến sản phẩm và quy trình. Tích cực tiếp nhận công nghệ qua nhiều kênh, đầu tư đào tạo nâng cao năng lực công nghệ nội bộ.

Từ góc độ chính sách tài chính, TS.Nguyễn Thị Thu Hiền, Chủ tịch Viện Kinh tế và Pháp luật Quốc tế, cho rằng một trong những “nút thắt” lớn nhất hiện nay là cơ chế tài chính công cho khoa học, công nghệ còn thiếu linh hoạt và chấp nhận rủi ro thấp.

Vấn đề sở hữu nhà nước đối với kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách, gây khó khăn trong định giá và chia sẻ lợi nhuận, làm giảm động lực của nhà khoa học và khoảng trống vốn cho các dự án công nghệ sâu ở giai đoạn đầu. Bên cạnh đó, các quy trình phân bổ, giám sát và kiểm soát ngân sách quá chặt chẽ khiến hoạt động nghiên cứu cơ bản vốn có độ rủi ro cao bị “bóp nghẹt”.

Để giải quyết những bài toán tài chính, bà Hiền đề xuất cần nâng cao hiệu quả chi tiêu công thông qua cơ chế khoán chi, tăng cường chấp nhận rủi ro có kiểm soát và cải cách các quỹ phát triển khoa học, công nghệ và chính sách tín dụng ưu đãi.

Huy động vốn tư nhân và các nguồn lực thay thế như quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thiên thần, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư R&D và khai thác mô hình gọi vốn cộng đồng. Thúc đẩy thương mại hóa bằng cải cách quyền sở hữu trí tuệ, phát triển hệ sinh thái định giá và chuyển giao công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học, công nghệ và tăng cường hợp tác công – tư.

Theo TS.Dương Thị Kim Liên, nhằm tạo đột phá về năng suất trong bối cảnh hiện nay, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực. Trong đó, các địa phương cần nhanh chóng rà soát, công khai kế hoạch hỗ trợ, minh bạch cơ chế lựa chọn doanh nghiệp thụ hưởng, bảo đảm chính sách đến đúng nơi, đúng đối tượng.

Với các doanh nghiệp công nghệ lớn, cần được hỗ trợ để trở thành mô hình thí điểm, lan tỏa hiệu quả cho chuỗi doanh nghiệp vệ tinh, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, việc phát triển hệ sinh thái công nghệ tại địa phương là yếu tố không thể thiếu, như tăng cường vai trò của các trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức tư vấn, vườn ươm doanh nghiệp và cụm liên kết ngành trong việc đưa công nghệ vào thực tiễn.

Đặc biệt, để bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách, cần thiết lập cơ chế phản ánh công khai và xử lý nghiêm những đơn vị trì trệ, gây cản trở cho hoạt động đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ tại doanh nghiệp.

“Nếu không hành động quyết liệt hôm nay, chúng ta sẽ tụt lại phía sau. Nhưng nếu cùng nhau thực hiện, thì một Việt Nam tự cường, sáng tạo, năng suất cao và thu nhập cao vào năm 2045 là hoàn toàn khả thi”, TS.Dương Thị Kim Liên tin tưởng.