AI For Industruy 2025: Trí tuệ nhân tạo - động lực mới cho công nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số
Trong bối cảnh Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế số và sản xuất thông minh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội phối hợp với Câu lạc bộ Khoa - Trường - Viện Công nghệ Thông tin - Truyền thông Việt Nam (FISU Việt Nam) tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công nghiệp” vào ngày 18 - 19/9/2025.
Đến tham dự hội thảo có: TS. Nguyễn Quân, Chủ tịch Hội tự động hoá Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ KHCN; GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Chủ tịch FISU Việt Nam; TS. Kiều Xuân Thực, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; TS. Nguyễn Thanh Tuyên, nguyên Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp CNTT.
Hội thảo quốc gia “Ứng dụng AI vào công nghiệp” được sự bảo trợ của Bộ Công Thương, Bộ Khoa học Công nghệ, Hội Tin học Việt Nam, Hội Tự động hóa do Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội phối hợp với Câu lạc bộ Khoa - Trường - Viện Công nghệ Thông tin - Truyền thông Việt Nam (FISU Việt Nam) tổ chức, kết hợp với Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN).
Hội thảo khoa học quốc gia “Ứng dụng AI trong công nghiệp” (AI For Industry 2025).
Diễn đàn kết nối “ba nhà”
Hội thảo nhằm tạo diễn đàn kết nối giữa các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia và doanh nghiệp để cùng chia sẻ kinh nghiệm, thảo luận chính sách cũng như đề xuất giải pháp phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) trong công nghiệp tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sự kiện còn hướng tới mục tiêu nâng cao nhận thức, thúc đẩy đào tạo và mở rộng ứng dụng AI trong sản xuất công nghiệp.
Phát biểu khai mạc, PGS. TS. Phạm Văn Đông, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cho biết, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trước đó, ngày 26/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 127/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030”. Chiến lược đã xác định mục tiêu: “Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và đào tạo trí tuệ nhân tạo, biến AI trở thành lĩnh vực công nghệ quan trọng của Việt Nam trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và từng bước đưa Việt Nam trở thành điểm sáng về AI trong khu vực cũng như trên thế giới.
PGS. TS. Phạm Văn Đông, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội phát biểu khai mạc hội thảo.
Theo PGS. TS. Phạm Văn Đông, hiện nay, trí tuệ nhân tạo đã trở thành một trong những công nghệ nền tảng, đạt được nhiều thành tựu vượt bậc với các ứng dụng đa dạng, đặc biệt là các sản phẩm AI tạo sinh và mô hình ngôn ngữ lớn. AI đã mở ra thời kỳ phát triển mới, đem lại trải nghiệm và hiệu quả ứng dụng trong mọi mặt đời sống. Tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm, đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực này, từng bước cải thiện năng lực nghiên cứu, nâng cao khả năng tiếp cận, hấp thụ và làm chủ công nghệ.
“Chúng tôi tin tưởng rằng hội thảo là một sự kiện quan trọng, có nhiều ý nghĩa, tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa “Ba nhà”: Nhà trường - Cơ quan quản lý - Doanh nghiệp, cùng nhau nâng tầm nghiên cứu và phát triển, tạo ra những sản phẩm AI hữu ích, đi vào thực tiễn đời sống và sản xuất” - PGS. TS. Phạm Văn Đông nhấn mạnh.
Cơ hội và thách thức từ AI
Phát biểu đề dẫn hội thảo, GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Chủ tịch FISU Việt Nam cho biết, hội thảo AI For Industruy 2025 đã đánh dấu và ghi nhận một sự kiện quan trọng góp phần ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất công nghiệp ở Việt Nam.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy cho hay, trí tuệ nhân tạo được coi là một công nghệ then chốt, động lực để thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển công nghiệp 4.0. Ở nhiều quốc gia, trí tuệ nhân tạo góp phần tối hưu hóa sản xuất, nâng cao năng suất, tự động hóa quá trình, kiểm soát chất lượng và đảm bảo an toàn lao động.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Chủ tịch FISU Việt Nam phát biểu đề dẫn hội thảo.
Đứng trước những cơ hội lớn, Đảng và Chính phủ Việt Nam coi trí tuệ nhân tạo như một công nghệ chiến được nhằm phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Tuy nhiên, theo GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, việc triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo đối mặt với những thách thức về hạ tầng, về nguồn nhân lực và cơ chế chính sách. Và hội thảo chính là cơ hội thu hút, tập hợp và kết nối các chuyên gia trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, CNTT, truyền thông, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Internet vạn vật, chuỗi khối và điện toán đám mây cũng như các chuyên gia trong quản trị sản xuất thông minh nhằm chia sẻ tri thức và kinh nghiệm quý báu.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy thông tin, hội thảo quốc gia AI For Industry 2025 diễn ra trong 2 ngày. Ngày 18/9 đã có 2 bài giảng đại chúng của các nhà khoa học có kinh nghiệm gồm bài giảng MLOp: Phát triển ứng dụng AI của Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN) và bài giảng Ứng dụng AI trong công nghiệp: Từ tối ưu hóa đến tự động hóa thông min của Trường Đại học công nghiệp Hà Nội.
Đặc biệt, sự kiện Hackthon/Challenge dành cho cho sinh viên là một điểm nhấn quan trọng và cuộc thi đã nhận được sự tham gia tích cực của các đội thi đến từ các trường đại học lớn của Việt Nam. Qua đó khơi dậy tinh thần sáng tạo và ứng dụng trí tuệ nhân tạo của thế trẻ vào những bài toán công nghiệp mang tính chất thực tiễn cao.
Chương trình ngày 19/9 được thiết kế đảm bảo tính chất khoa học và toàn diện, có sự tham gia của tất cả các bên, các cơ quan quản lý nhà nước, đó là các nhà quản lý, nhà trường, đó là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp, đó là các chuyên gia ứng dụng và phát triển các giải pháp AI trong công nghiệp.
Buổi sáng gồm 2 phần là phiên toàn thể và toạ đàm. Tại phiên toàn thể sẽ được nghe 04 báo cáo gồm: báo cáo của GS. Lê Thị Hoài An về “AI trong công nghiệp: Từ kinh nghiệm thế giới đến thực tiễn Việt Nam, báo cáo của TS. Nguyễn Thanh Tuyên về “Chính sách và chiến lược thúc đẩy AI trong công nghiệp tại Việt Nm”, báo cáo của ông Nguyễn Việt Bằng về “Xu hướng ứng dụng AI trong sản xuất công nghiệp” và báo cáo của ông Đỗ Bá Tước về “AI trong sản xuất công nghiệp - Thực trạng, thách thức trong sản xuất”.
Tiếp theo đó là toạ đàm với sự tham gia của các nhà khoa học, các nhà phản lý trong thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công nghiệp. Toạ đàm sẽ bàn luận về các chủ đề ứng dụng AI trong công nghiệp, về các cơ hội thách thức và hướng đi trong công nghiệp, trao đổi các vấn đề có liên quan đến kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, những hoạch định về chính sách, chiến lược, phát triển AI trong công nghiệp và xu hướng ứng dụng trong sản xuất thông minh.
Buổi chiều là các phiên thảo luận đi sâu vào những vấn đề trọng yếu mà các doanh nghiệp cũng như các nhà nghiên cứu, ứng dụng từ các trường đại học và các tập đoàn chia sẻ về những thành tựu, những kết quả mới nhất trong nghiên cứu và ứng dụng AI trong công nghiệp, các trao đổi về ứng dụng AI trong tự động hóa và robot công nghiệp, ứng dụng AI trong tự động hóa trong sản xuất thông minh và kiểm soát chất lượng, đào tạo AI cho sản xuất công nghiệp và sau đấy là các giải pháp cũng như các mô hình AI trong công nghiệp.
“Có thể thấy cấu trúc của chương trình hội thảo quốc gia bao quát tầm, có tích chất chiến lược, đồng thời cũng có tích chất thực tiễn với các mô hình, với các sketch idea cụ thể” - GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy đánh giá.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy nhấn mạnh rằng hội thảo sẽ là một diễn đàn khoa học công nghệ, chính sách, có giá trị kết nối các nhà khoa học, các nhà quản lý, doanh nghiệp, cùng nhau tìm ra giải pháp cho những bài toán thực tiễn: làm thế nào để AI trở thành động lực then chốt cho công nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số.
AI - Động lực mới cho phát triển công nghiệp
Phiên toàn thể được điều hành bởi PGS.TS. Bùi Thu Lâm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký FISU Việt Nam và NGƯT. TS. Nguyễn Văn Thiện, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
PGS.TS. Bùi Thu Lâm và NGƯT. TS. Nguyễn Văn Thiện điều hành phiên toàn thể.
Bài tham luận “AI trong công nghiệp: từ kinh nghiệm thế giới đến thực tiễn Việt Nam” do GS. Lê Thị Hoài An (ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH Lorraine, Pháp) trình bày nhấn mạnh rằng trí tuệ nhân tạo đang trở thành trụ cột của công nghiệp hiện đại, tạo ra nền tảng cho tự động hóa, tối ưu hóa sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo bà, hệ sinh thái AI trong công nghiệp được cấu thành từ năm yếu tố chính. Trước hết là dữ liệu - nguồn nhiên liệu cốt lõi, bởi AI chỉ phát huy hiệu quả khi có dữ liệu đầy đủ, chuẩn hóa và đảm bảo chất lượng. Việc thu thập dữ liệu từ hệ thống IoT, máy móc, lưu trữ, quản lý và bảo mật đóng vai trò then chốt. Tiếp theo là phần cứng, bao gồm CPU, GPU, TPU, thiết bị biên và hạ tầng điện toán đám mây, cho phép xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ và vận hành các mô hình AI. Thứ ba là phần mềm và nền tảng, từ các framework, pipeline huấn luyện - triển khai, đến MLOps/AIOps, API và các ứng dụng AI trực tiếp trong dây chuyền sản xuất. Thứ tư là nhân lực và vận hành - yếu tố quyết định sự thành công - với đội ngũ chuyên gia AI, kỹ sư công nghiệp, quản lý dữ liệu cùng văn hóa dữ liệu trong doanh nghiệp. Cuối cùng là vấn đề an ninh và an toàn, nhằm bảo vệ dữ liệu, chống tấn công mạng và tuân thủ các quy định pháp lý như GDPR hay Luật An ninh mạng.
GS. Lê Thị Hoài An trình bày tham luận “AI trong công nghiệp: từ kinh nghiệm thế giới đến thực tiễn Việt Nam”.
GS. Lê Thị Hoài An cũng cho biết, AI ngày càng chứng tỏ vai trò trung tâm trong quá trình chuyển đổi công nghiệp, không chỉ giúp tự động hóa, giảm lãng phí, tăng năng suất, mà còn dự đoán sự cố, hỗ trợ bảo trì thiết bị, nâng cao chất lượng và mang lại sự linh hoạt trong sản xuất. Nhiều quốc gia tiên tiến đã ban hành chiến lược quốc gia về AI, đồng thời gắn công nghệ này với các ưu tiên phát triển. Mỹ chú trọng đầu tư R&D và khuyến khích hợp tác công - tư; châu Âu ban hành Đạo luật AI cùng chuẩn đạo đức và khung pháp lý; Đức triển khai mô hình “Smart Factory” trong chiến lược Industrie 4.0; Pháp ưu tiên AI trong công nghiệp và y tế thông qua “Plan Villani” và chiến lược France 2030; Nhật Bản và Hàn Quốc gắn AI với robot, hướng tới xã hội 5.0; còn Singapore hỗ trợ mạnh mẽ SME thông qua mô hình sandbox và AI governance.
Bài học rút ra từ các quốc gia này là: cần hạ tầng chung cùng dữ liệu mở để thúc đẩy doanh nghiệp, cơ chế công - tư để đẩy nhanh chuyển giao công nghệ, và môi trường sandbox an toàn cho thử nghiệm. Các tập đoàn lớn cùng với startup đóng vai trò dẫn dắt, trong khi SME được tiếp cận AI thông qua các dịch vụ SaaS và nền tảng chia sẻ. Đồng thời, các chính phủ đều chú trọng đào tạo, nâng cao kỹ năng cho nhân lực và thiết lập trung tâm xuất sắc (CoE) hoặc viện nghiên cứu quốc gia về AI.
Với Việt Nam, cơ hội đi tắt đón đầu là rất rõ ràng. Một số tập đoàn lớn như VinFast, Samsung hay THACO đã triển khai AI trong dự đoán bảo trì, kiểm tra chất lượng, tối ưu dây chuyền và logistics. SME cũng bắt đầu tiếp cận AI thông qua các dịch vụ SaaS, IoT và các dự án thử nghiệm. Tuy nhiên, hệ sinh thái AI công nghiệp trong nước vẫn còn nhiều điểm yếu: dữ liệu phân tán, phần cứng hạn chế, phụ thuộc nền tảng phần mềm quốc tế, thiếu nhân lực chuyên sâu và chưa có nhiều sandbox thí điểm.
Để khắc phục, GS. Hoài An cho rằng Việt Nam cần nhảy cóc sang các hệ thống IoT và Data Lake hiện đại, tận dụng các nền tảng cloud AI và AI-as-a-Service từ các tập đoàn công nghệ trong nước (như FPT, Viettel,…). Đồng thời phát triển sandbox AI và “Make in Vietnam” cho sản xuất. Việc đào tạo nhân lực AI thực hành theo mô hình của Đức và Nhật Bản, gắn với chuẩn an ninh quốc tế, sẽ là chìa khóa để xây dựng nền công nghiệp thông minh và bền vững.
Một số ngành như dệt may, thực phẩm và điện tử được coi là trọng điểm thí điểm AI ở Việt Nam. Với dệt may, AI giúp kiểm tra lỗi vải, tối ưu quy trình và dự báo nhu cầu; trong ngành thực phẩm, công nghệ này hỗ trợ kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tối ưu logistics; còn trong lĩnh vực điện tử, AI phục vụ kiểm định sản phẩm, bảo trì dự đoán và tối ưu dây chuyền sản xuất.
“AI là trụ cột của công nghiệp hiện đại. Việt Nam có nhiều cơ hội để đi tắt đón đầu, nhưng cần một chiến lược dài hạn, gắn kết giữa công nghệ, nhân lực và chính sách”- GS. Lê Thị Hoài An nhấn mạnh. Theo bà, từ những bài học quốc tế, Việt Nam cần hành động ngay thông qua thí điểm, chuẩn hóa dữ liệu, đào tạo và hợp tác quốc tế, để biến AI thành động lực thực sự cho sự phát triển công nghiệp trong tương lai.
Trong tham luận “Chính sách và chiến lược thúc đẩy AI trong công nghiệp tại Việt Nam”, TS. Nguyễn Thanh Tuyên, nguyên Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp CNTT, Bộ KHCN, đã nhấn mạnh bối cảnh toàn cầu cho thấy trí tuệ nhân tạo đang bước vào giai đoạn bùng nổ chưa từng có.
Theo ông, 90% dữ liệu toàn cầu chỉ mới được tạo ra trong vòng hai năm qua; khả năng tính toán phục vụ đào tạo mô hình AI tăng gấp đôi chỉ sau 5 tháng; còn các thuật toán mới cũng có tốc độ cải tiến nhanh đến mức cứ sau 9 tháng lại tương đương một lần “nhân đôi” sức mạnh tính toán. AI vì thế được xem như “DNA mới” của nền kinh tế, với tiềm năng đóng góp thêm tới 4,4 nghìn tỷ USD mỗi năm cho GDP toàn cầu. Trong bối cảnh Mỹ, Trung Quốc và châu Âu đang chạy đua quyết liệt để định hình chuẩn mực quốc tế, Việt Nam đứng trước cơ hội “đi tắt, đón đầu” nếu tận dụng tốt lợi thế.
TS. Nguyễn Thanh Tuyên đưa ra bức tranh toàn cầu về AI, khẳng định AI là “DNA mới” của kinh tế, đồng thời chỉ ra cơ hội và thách thức của Việt Nam.
TS. Tuyên thông tin, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật. Theo Mạng lưới Nghiên cứu Thị trường Độc lập Toàn cầu (WIN), Việt Nam đứng trong Top 6 thế giới về chỉ số AI toàn cầu 2025, đồng thời nằm trong nhóm 5 quốc gia ASEAN có mức độ sẵn sàng AI cao nhất theo Oxford Insights 2024. Đầu tư vào lĩnh vực này cũng tăng trưởng mạnh, từ 10 triệu USD năm 2023 lên 80 triệu USD năm 2024. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp công nghệ số trong nước đã phát triển sản phẩm, dịch vụ ứng dụng AI, và các cơ quan nhà nước cũng tích cực triển khai AI trong hoạt động quản lý và phục vụ người dân.
Việt Nam đồng thời trở thành điểm đến chiến lược của nhiều tập đoàn công nghệ toàn cầu. NVIDIA đã hợp tác với FPT để xây dựng nhà máy AI Factory đầu tiên tại Việt Nam, trong khi Amkor, Samsung và nhiều “ông lớn” khác như Qualcomm, Synopsys hay Cadence đều tăng mạnh đầu tư, không chỉ mở nhà máy mà còn tham gia đào tạo nhân lực, phát triển bán dẫn và xây dựng hệ sinh thái số.
Dù vậy, theo TS. Tuyên, Việt Nam vẫn đối diện nhiều thách thức. Nguồn nhân lực AI chất lượng cao còn thiếu, nguy cơ “chảy máu chất xám” hiện hữu. Hạ tầng dữ liệu chưa đồng bộ, thiếu siêu máy tính và kho dữ liệu mở chuẩn quốc tế. Các ứng dụng AI trong nước còn đơn giản, ngân sách nghiên cứu thiếu ổn định, trong khi pháp lý và chuẩn mực còn chậm, dẫn đến sự phụ thuộc vào nền tảng nước ngoài.
Để khắc phục, Việt Nam đã ban hành nhiều chiến lược và văn bản quan trọng, trong đó có Chiến lược quốc gia về AI đến 2030, Nghị quyết 57/NQ-CP, Luật Công nghiệp công nghệ số (2025), cùng các đề án đào tạo nhân lực cho giai đoạn 2025 - 2035. Đặc biệt, Luật Công nghiệp công nghệ số (có hiệu lực từ 2026) đã lần đầu tiên đặt AI thành một chương riêng, quy định nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát rủi ro và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, qua đó tạo hành lang pháp lý an toàn và thuận lợi cho đổi mới sáng tạo.
Một điểm nhấn khác là chính sách ưu đãi tài chính mạnh mẽ. Nghị định 182/2024/NĐ-CP đã thành lập Quỹ Hỗ trợ Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển AI, với mức hỗ trợ có thể lên đến 50% chi phí cho các dự án lớn, đồng thời tài trợ đào tạo nhân lực và phát triển hạ tầng.
Theo định hướng, trọng tâm phát triển AI trong công nghiệp tại Việt Nam sẽ tập trung vào các ứng dụng sản xuất thông minh, quản lý chuỗi cung ứng, tích hợp IoT, phát triển sản phẩm “Make in Vietnam” như chip AI, mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt, và xây dựng đội ngũ chuyên gia, kỹ sư AI đạt chuẩn quốc tế. Đặc biệt, Chính phủ cũng đặt mục tiêu phổ cập kiến thức AI tới toàn dân và thúc đẩy các ứng dụng lưỡng dụng kết hợp quốc phòng - dân sự.
TS. Tuyên nhấn mạnh, khi xây dựng luật và chính sách AI, cần một cách tiếp cận “mềm” và linh hoạt, tức là “luật khung, luật mềm”: đặt ra nguyên tắc nền tảng như minh bạch, trách nhiệm, bảo vệ người dân, nhưng vẫn chừa không gian cho đổi mới. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới vừa khuyến khích được đầu tư và sáng tạo, vừa đảm bảo an toàn xã hội.
Ông kết luận: AI chính là cơ hội lịch sử để Việt Nam thay đổi vị thế quốc gia. Nhưng cơ hội này chỉ có thể hiện thực hóa nếu Nhà nước, doanh nghiệp, học viện và startup cùng chung tay hành động. “Chậm một bước là mất cả một thế hệ công nghệ” - TS. Tuyên cảnh báo.
Bài tham luận “Xu hướng ứng dụng AI trong sản xuất công nghiệp” do ông Nguyễn Việt Bằng, Phó Tổng Giám đốc VNPT Technology trình bày đã mang đến một góc nhìn toàn diện về sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành công nghiệp trong kỷ nguyên số.
Thông qua hệ thống các phân tích chuyên sâu, ông Nguyễn Việt Bằng đã giới thiệu cách VNPT Technology triển khai các giải pháp trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất công nghiệp, từ nền tảng hạ tầng dữ liệu, điện toán biên, điện toán đám mây, đến các thuật toán học máy, học sâu, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và thị giác máy tính. Bài tham luận nhấn mạnh vai trò của GenAI - công nghệ trí tuệ nhân tạo thế hệ mới - trong việc tối ưu hóa quy trình sản xuất, tự động hóa vận hành, lập kế hoạch thông minh, kiểm soát chất lượng và quản trị nhà máy theo thời gian thực.
Ông Nguyễn Việt Bằng trình bày ứng dụng GenAI trong tối ưu hóa sản xuất, chia sẻ các mô hình thực tế như camera giám sát dây chuyền, bảo trì thiết bị thời gian thực.
Đặc biệt, ông Bằng đã chia sẻ những mô hình ứng dụng thực tế tại VNPT Technology như hệ thống kiểm tra quy cách công nhân bằng AI, giám sát dây chuyền sản xuất qua camera thông minh, quản lý kho và bảo trì thiết bị bằng dữ liệu thời gian thực, cũng như các nền tảng AI hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng và linh hoạt.
Bài tham luận không chỉ phản ánh xu hướng toàn cầu về chuyển đổi số trong sản xuất mà còn khẳng định tầm nhìn chiến lược của VNPT Technology trong việc xây dựng hệ sinh thái AI công nghiệp tại Việt Nam, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy phát triển bền vững.
Bài tham luận “AI trong sản xuất công nghiệp - Thực trạng, thách thức trong sản xuất” do ông Đỗ Bá Tước, chuyên gia cao cấp của FPT Software trình bày đã mang đến một cái nhìn sâu sắc về quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam.
Thông qua chuỗi nội dung trình bày trực quan, ông Đỗ Bá Tước đã phân tích toàn diện hiện trạng ứng dụng AI trong sản xuất công nghiệp, từ các mô hình sản xuất truyền thống đến xu hướng tích hợp AI & IoT trong hệ thống nhà máy thông minh. Bài tham luận nêu rõ những khó khăn phổ biến như kỳ vọng quá mức, thiếu dữ liệu chất lượng, thách thức trong cải tiến liên tục và tích hợp hệ thống AI vào hạ tầng hiện hữu.
Ông Đỗ Bá Tước phân tích hiện trạng AI trong công nghiệp Việt Nam, giới thiệu các giải pháp Smart Checker, FactoryGPT, quản trị điều hành thông minh trên nền IoT.
Đặc biệt, ông Tước đã giới thiệu lộ trình số hóa sản xuất, bản đồ giải pháp AI trong chuỗi cung ứng, và các mô hình ứng dụng thực tế như Smart Checker, FactoryGPT, hệ thống kiểm tra quy cách công nhân bằng AI, giám sát dây chuyền sản xuất thời gian thực, và quản trị điều hành thông minh qua nền tảng IoT. Những nội dung này không chỉ phản ánh năng lực triển khai của FPT Software mà còn cho thấy tiềm năng to lớn của AI trong việc nâng cao hiệu suất, giảm chi phí và tối ưu hóa toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất.
Bài tham luận là một đóng góp quan trọng trong việc định hình chiến lược phát triển công nghiệp thông minh tại Việt Nam, đồng thời mở ra những hướng đi mới cho doanh nghiệp trong việc ứng dụng công nghệ để thích ứng và bứt phá trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu.
Chính sách và hướng đi cho Việt Nam
Sau phiên toàn thể, hội thảo đã diễn ra Toạ đàm “Ứng dụng AI trong Công nghiệp: Cơ hội, thách thức và hướng đi tương lai” do TS. Đặng Trọng Hợp, Hiệu trưởng Trường CNTT&TT, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội làm chủ toạ với các khách mời gồm TS. Nguyễn Quân, Chủ tịch Hội Tự động hoá Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN; GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam; Chủ tịch FISU Việt Nam; TS. Nguyễn Thanh Tuyên, Nguyên Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp CNTT, Bộ KHCN.
Tọa đàm “Ứng dụng AI trong Công nghiệp: Cơ hội, thách thức và hướng đi tương lai”.
Về vấn đề chính sách chiến lược, TS. Đặng Trọng Hợp đề cập: “Trong phần chia sẻ của GS. Lê Thị Hoài An, có rất nhiều mô hình, kinh nghiệm phát triển trí tuệ nhân tạo của nhiều nước khác nhau từ Mỹ, Trung Quốc, Singapore, Châu Âu, Pháp, Đức... Đâu là bài học, mô hình mà Việt Nam chúng ta nên hướng tới hoặc học tập kinh nghiệm?”.
Trả lời câu hỏi này, TS. Nguyễn Quân, Chủ tịch Hội Tự động hoá Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN cho biết, AI phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng Việt Nam mới đang là những bước đi đầu tiên và tiếp cận trong thời gian rất ngắn. “Nếu chúng ta cần phải học tập mô hình ở một nước, một quốc gia tương đối phát triển thì cá nhân tôi nghĩ rằng là nên học tập Hàn Quốc. Bởi vì Hàn Quốc tương đồng về văn hoá, tương đồng về địa chính trị. Trong chừng mực nào đó, cái khoảng cách của chúng ta với Hàn Quốc cũng ở mức mà chúng ta có thể phấn đấu được” - TS. Quân bày tỏ.
Cũng theo TS. Quân, sự phát triển AI của Hàn Quốc gắn liền với việc phát triển công nghiệp trong công nghiệp hóa và Hàn Quốc cũng là một quốc gia mà đầu tư thuộc hàng top lớn nhất vào Việt Nam. Các tập đoàn công nghệ của nước này đang ở Việt Nam, đi kèm với nền sản xuất ấy là tất cả những vấn đề liên quan đến công nghệ, nền tảng công nghiệp số như IoT, AI, Blockchain. Vì thế, nếu Việt Nam học tập kinh nghiệm của Hàn Quốc thì sẽ khả thi hơn là học tập mô hình của các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu hay là một vài quốc gia phát triển khác.
TS. Nguyễn Quân đề xuất Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm Hàn Quốc, quốc gia có điều kiện tương đồng và đang đầu tư mạnh vào Việt Nam.
“Chúng ta cần quan tâm đến cách thức mà AI đặt ra. Vì chúng ta phát triển từ một nền tảng rất thấp, hạ tầng cho AI của Việt Nam còn vô cùng khó khăn, chưa đáp ứng được. Đặc biệt, nếu chúng ta quá lạm dụng AI thì nhiều khi sẽ phạm phải sai lầm. Trong công nghiệp nếu ứng dụng AI thì vô cùng tốt, tất nhiên là phải bảo mật dữ liệu, phải có dữ liệu mà đáp ứng đủ các tiêu chí “đủ, đúng, sống, sạch” - TS. Quân chia sẻ.
Chia sẻ về câu hỏi “Đâu là hướng đi của AI Việt Nam trong thời gian tới?”, GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, cho rằng, quan trọng là định hướng của Nhà nước. Trước hết là trong Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 20230 do Thủ tướng ban hành ngày 26/1/2021, Việt Nam tập trung vào phát triển trí tuệ nhân tạo để phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP và tăng chất lượng cuộc sống cho người dân. Một vấn đề quan trọng trong Chiến lược này là quan tâm đến doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Ở Việt Nam có hàng triệu doanh nghiệp SME rất năng động.
Định hướng của Chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo là phát triển cho nông nghiệp, công nghiệp, y tế, giáo dục, môi trường, an ninh quốc phòng. Riêng về lĩnh vực công nghiệp, có công nghiệp chế biến chế tạo theo thống kê năm 2020 chiếm 16,7% GDP của đất nước, chiếm 86,24% sản phẩm xuất khẩu. Vậy nên cần phải có một định hướng ở tầm quốc gia cho công nghiệp chế biến chế tạo, trong đó bao gồm các phần về máy tính và các thiết bị điện tử là điện thoại, linh kiện; đó là da giày, sản phẩm gỗ và dệt may.
Về giải pháp dùng AI trong công nghiệp, GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy cho rằng cần nói đến hai từ khoá là AI+IoT, trong đó IoT cần dữ liệu của các hệ thống sản xuất công nghiệp trên nền tảng điện toán đám mây. Đặc biệt, ông lưu ý đối với người làm về AI hay áp dụng AI trong công nghiệp thì không thể áp dụng gì nếu như bỏ qua “cửa” Tự động hoá.
“Chúng ta đang bàn về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhưng cần nhớ rằng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba thì các thành tố Tin học hoá, Tự động hoá đóng vai trò rất quan trọng. Do vậy, bất kỳ một giải pháp nào về AI trong công nghiệp nếu chưa có phải đi từ khâu đầu tiên và ít nhất phải đi từ Tin học hoá, Tự động hoá, Thông minh hoá. Người làm về AI, Tin học trong công nghiệp không được bỏ qua những tuy duy rất quan trọng là SCADA. Chúng ta phải làm rất cụ thể, rất đúng, rất trúng và rất sát” - GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy nhìn nhận.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy cũng chia sẻ, khi xây dựng Chiến lược ở giai đoạn 2, bổ sung thêm một nội dung rất quan trọng là “nghiên cứu”, có nghĩa, chúng ta không chỉ phát triển, ứng dụng mà còn phải nghiên cứu. Mục tiêu là hướng tới một xã hội sáng tạo, giống như xã hội số, hướng tới đảm bảo an ninh quốc phòng...
Chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo sẽ được phê duyệt trong năm 2025, sẽ gồm một số định hướng: Thứ nhất, muốn làm ra của cải cho xã hội, muốn cho AI đi vào cuộc sống, phải phổ cập trí tuệ nhân tạo toàn dân và toàn diện. Thứ hai, phải xây dựng một xã hội sáng tạo và đẩy mạnh việc phát triển…
Ngoài ra, GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy cũng nhấn mạnh: “Sự thay đổi của các trường đại học sẽ rất toàn diện. Bởi trong trong các văn bản của Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, yêu cầu trí tuệ nhân tạo phải được đưa vào một cách trực tiếp trong các chương trình giáo dục phổ thông và giáo dục đại học.
Nếu AI là một nguồn tri thức rất tốt, có nguồn thông tin không có gì nguy hại, thì khuyến khích sử dụng; nhưng những sản phẩm có độ rủi ro trung bình, thì Nhà nước, cơ quan chức năng, thầy cô khuyến cáo, hoặc “gán nhãn” để học sinh, sinh viên điều tiết việc sử dụng; còn có những sản phẩm với độ rủi ro cao, phải có kiểm định trước khi sử dụng và giám sát nghiêm ngặt. Nếu sản phẩm AI có độ nguy hiểm ở mức độ cực cao, cần phải cấm tuyệt đối. Tôi cho rằng, trong các trường đại học, cần có quy định cụ thể”.
TS. Đặng Trọng Hợp điều hành phiên toạ đàm.
TS. Nguyễn Thanh Tuyên, nguyên Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp CNTT, Bộ KHCN chia sẻ về những chính sách cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ những năm qua tại Việt Nam, cũng như chỉ ra một số thuận lợi và thách thức.
Theo ông, đối với doanh nghiệp SME đang gặp rất nhiều khó khăn và không biết nên dùng AI nào. Vì vậy, các chính sách phải hỗ trợ, cung cấp các chương trình đào tạo, tập huấn để các doanh nghiệp SME biết cách sử dụng AI.
Bên cạnh đó, AI là công nghệ mới đòi hỏi phải đầu tư với chi phí lớn, trong khí đó doanh nghiệp SME thì không có đủ nguồn lực. Do đó, Nhà nước phải hỗ trợ về mặt hạ tầng công nghệ tính toán. Có những quỹ để những doanh nghiệp SME tiếp cận được vốn vay.
TS. Tuyên cũng chỉ ra rằng, các công nghệ mới có thể gây rủi ro, đặc biệt là AI. Việc áp dụng công nghệ mới một cách đại trà, khi chưa có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và pháp lý, có thể dẫn đến rủi ro không chỉ cho đơn vị triển khai mà còn cho toàn xã hội. Do đó, cần triển khai công nghệ trong môi trường thử nghiệm có kiểm soát, với quy mô và thời gian giới hạn, để nếu có rủi ro thì sẽ có giảm thiểu về trách nhiệm cho những doanh nghiệp SME.
“Khi xây dựng chính sách cần phải tạo điều kiện để doanh nghiệp SME có thể sử dụng công nghệ mới trong môi trường an toàn, có giám sát. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới mà không phải chịu rủi ro quá lớn. Cùng với đó, Nhà nước nên có quỹ hỗ trợ triển khai AI cho doanh nghiệp SME. Cần phát triển hệ sinh thái mở, nền tảng AI dùng chung, dữ liệu mở, điện toán đám mây giúp doanh nghiệp triển khai AI nhanh hơn thay vì đầu tư hạ tầng riêng” - TS. Tuyên đề xuất.
Tại phiên tọa đàm, ông Nguyễn Việt Bằng, Phó Tổng Giám đốc VNPT Technology chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn từ VNPT Technology.
Trong khuôn khổ hội thảo, Hội Tin học Việt Nam trao tặng bằng khen cho các cá nhân có thành tích xuất sắc trong tổ chức Kỳ thi Olympic Tin học sinh viên Việt Nam, Procon và ICPC Asia Hanoi 2024.
Buổi chiều cùng ngày, Hội thảo chia thành bốn chuyên đề song song:
-
Chuyên đề 1: Ứng dụng AI trong tự động hóa và robot công nghiệp do PGS.TS. Hoàng Văn Xiêm (VNU), TS. Quách Đức Cường (HaUI chủ trì giới thiệu các công nghệ AI Vision, robot thích nghi thế hệ mới và xử lý dữ liệu thông minh,…
-
Chuyên đề 2: Ứng dụng AI trong sản xuất thông minh và kiểm soát chất lượng do PGS.TS. Hoàng Tiến Dũng (HaUI), PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Sơn (HaUI) chủ trì tập trung vào computer vision, kiểm soát an toàn lao động bằng AI, và ứng dụng trong nông nghiệp,…
-
Chuyên đề 2: Đào tạo AI trong sản xuất công nghiệp do PGS.TS. Huỳnh Thị Thanh Bình (HUST), TS. Đặng Trọng Hợp (HaUI) chủ trì chia sẻ kinh nghiệm đào tạo từ các trường đại học trong cả nước, hướng tới xây dựng lực lượng kỹ sư AI đáp ứng yêu cầu công nghiệp 4.0,…
-
Chuyên đề 4: Các giải pháp và mô hình AI trong sản xuất công nghiệp do PGS.TS. Trịnh Trọng Chưởng (HaUI), PGS.TS. Nguyễn Hữu Quỳnh (CMC) chủ trì giới thiệu agentic AI, sản xuất thông minh với IIoT và các mô hình giảm phát thải bằng AI,…
Ban tổ chức trao giải Nhất của cuộc thi AI Hackthon/Challenge.
Bên cạnh các phiên thảo luận học thuật, AI4Industry 2025 còn tạo ra một sân chơi khoa học đầy hứng khởi cho thế hệ trẻ với cuộc thi AI Hackathon/Challenge. Các đội thi sinh viên đã có cơ hội vận dụng kiến thức, giải quyết những bài toán thực tế về ứng dụng Computer Vision để phát hiện lỗi sản phẩm, một trong những ứng dụng quan trọng và phổ biến nhất của AI trong công nghiệp hiện nay. Cuộc thi không chỉ là nơi để các tài năng trẻ thể hiện bản thân mà còn là cầu nối thiết thực giữa nhà trường và doanh nghiệp, giúp sinh viên tiếp cận với những vấn đề của ngành và định hướng nghề nghiệp tương lai.
Các đại biểu tham dự hội thảo chụp ảnh lưu niệm.
Hội thảo AI For Industry 2025 đã trở thành diễn đàn khoa học - công nghệ - chính sách quan trọng, tạo sự kết nối giữa giới học thuật, quản lý và doanh nghiệp. Các tham luận và thảo luận đều thống nhất rằng AI là cơ hội lịch sử để công nghiệp Việt Nam bứt phá, song cần chiến lược dài hạn, dữ liệu chuẩn hóa, nhân lực chất lượng cao, hạ tầng hiện đại và khung pháp lý linh hoạt.