Khi công nghệ biết nghe lòng đất và cảm nỗi đau con người
Giữa những triền núi nơi đất có thể trượt đi bất cứ lúc nào, một nhóm kỹ sư Việt đã khiến công nghệ biết “nghe” và “cảm” - để cảnh báo sớm, để cứu người. “Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” không chỉ là một sản phẩm công nghệ, mà là nhịp đập của trí tuệ và lòng nhân ái Việt Nam.
Những năm gần đây, hiện tượng sạt lở đất xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu cùng các dạng thời tiết cực đoan. “Là người làm trong lĩnh vực địa chất và trắc địa, tôi nhận thấy nhu cầu cấp thiết về một hệ thống cảnh báo sớm, giúp người dân có thể chủ động sơ tán, gia cố công trình để hạn chế thiệt hại”, TS.Dương Thành Trung (Phó Trưởng khoa Trắc địa, Bản đồ và Quản lý đất đai, Trường Đại học Mỏ - Địa chất), trưởng nhóm nghiên cứu Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm của công ty Aitogy chia sẻ.

Nhóm tác giả “Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” nhận giải tại Lễ trao giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2025.
Khi thiên nhiên đòi hỏi lời đáp từ con người
Trước đây, các hệ thống cảnh báo như vậy phần lớn được nhập khẩu từ châu Âu, có chi phí rất cao và khó bảo trì trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Việt Nam. Mỗi khi xảy ra hỏng hóc, việc chờ linh kiện thay thế từ nước ngoài khiến quá trình khắc phục mất nhiều thời gian và tốn kém.
Từ thực tế đó, công ty Aitogy quyết định phát triển một hệ thống “Make in Vietnam”, nhằm giảm chi phí, đồng thời chủ động bảo dưỡng và nâng cấp. “Tôi phụ trách mảng địa chất địa kỹ thuật, kết hợp cùng các bạn trẻ có chuyên môn về điện - điện tử, công nghệ thông tin và tự động hóa, để cùng nhau hiện thực hóa ý tưởng này”, TS.Trung cho biết thêm.
Từ những buổi làm việc thâu đêm trong phòng thí nghiệm đến những chuyến lội suối leo đồi lắp đặt thiết bị, tất cả đã kết tinh trong một khoảnh khắc đáng nhớ. Khoảnh khắc “Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” được xướng lên trong đêm trao giải Nhân tài Đất Việt 2025, cả nhóm như nín thở. Rồi tiếng vỗ tay vang lên, ánh đèn sân khấu rọi xuống khuôn mặt những kỹ sư trẻ - giữa họ, niềm vui xen lẫn xúc động.
“Chúng tôi thực sự bất ngờ”, TS.Trung chia sẻ. “Nhiều bạn trong nhóm lần đầu dự một sân chơi lớn như thế, cảm giác vinh dự và tự hào thật khó diễn tả”.

“Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” không chỉ là một sản phẩm công nghệ, mà là nhịp đập của trí tuệ và lòng nhân ái Việt Nam.
Khi trí tuệ Việt tự tìm chỗ đứng...
Đằng sau ánh đèn sân khấu là những năm tháng bền bỉ nghiên cứu, thử nghiệm và niềm tin vững chắc vào trí tuệ Việt. Thay vì phải phụ thuộc vào nước ngoài, nhóm nghiên cứu quyết định phát triển một hệ thống hoàn toàn “Make in Vietnam”, chủ động từ khâu thiết kế, chế tạo đến vận hành. TS.Trung phụ trách mảng địa chất, kết hợp cùng các cộng sự trẻ trong lĩnh vực điện, điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa để hiện thực hóa ý tưởng. Họ đặt mục tiêu tạo ra một sản phẩm hiệu quả, tiết kiệm, dễ bảo trì, đủ bền bỉ, thông minh để hoạt động trong điều kiện khắc nghiệt.
Theo chia sẻ của nhóm, hệ thống được thiết kế với module quan trắc nền tảng, được xem là “trái tim” của toàn bộ cấu trúc. Module này tích hợp cảm biến đo mực nước ngầm, cảm biến GNSS theo dõi dịch chuyển bề mặt, cảm biến IMU ghi nhận chuyển động và góc nghiêng cùng cảm biến đo lượng mưa. Dữ liệu thu thập liên tục qua bộ ghi dữ liệu (Data Logger) rồi truyền về trung tâm điều hành qua giao thức MQTT, một chuẩn truyền thông IoT hiện đại, đảm bảo tốc độ, độ tin cậy và tiết kiệm năng lượng.
Điều đặc biệt là nhóm chọn cách phát triển từng bước chắc chắn, tập trung hoàn thiện module nền tảng để sau này dễ mở rộng, tích hợp và nhân rộng quy mô. “Nếu trái tim khỏe mạnh, những cơ quan khác sẽ hoạt động ổn định”, một thành viên trong nhóm nói. Cách làm này giúp sản phẩm vừa khoa học, vừa bền vững, đủ sức trở thành nền tảng cho mạng lưới giám sát, cảnh báo sạt lở toàn diện trong tương lai.
Đằng sau hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm của Aitogy là hành trình công nghệ được nghiên cứu, thử nghiệm và hoàn thiện tại Việt Nam, một sản phẩm “Make in Vietnam” đúng nghĩa do các kỹ sư trẻ trong nước phát triển, làm chủ từ thiết kế, chế tạo đến vận hành.
Khởi nguồn từ nhận thức về nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh thiên tai ngày càng cực đoan, nhóm nghiên cứu quyết tâm tạo ra giải pháp cảnh báo sớm chi phí thấp, dễ triển khai nhưng vẫn đảm bảo độ chính xác và ổn định để ứng dụng rộng rãi.
Nếu trước đây, các hệ thống nhập khẩu từ châu Âu có giá thành cao, bảo trì phức tạp, phụ thuộc linh kiện nước ngoài thì sản phẩm của Aitogy đã khắc phục triệt để: tự chủ công nghệ, chủ động bảo dưỡng, dễ nâng cấp, phù hợp điều kiện khắc nghiệt ở Việt Nam.
Để đi đến thành công, hành trình ấy không hề dễ dàng. Phía sau mỗi thiết bị, mỗi dòng dữ liệu là mồ hôi, sự kiên nhẫn cùng niềm tin của những kỹ sư trẻ. Họ không chỉ làm việc trong phòng thí nghiệm mà còn đến tận những khu vực địa hình hiểm trở, nơi từng xảy ra sạt lở, để lắp đặt và kiểm nghiệm hệ thống trong điều kiện thực tế khắc nghiệt nhất.

Nhóm tác giả trình bày về sản phẩm tại buổi khảo sát thực tế một số sản phẩm lọt vòng Chung khảo Nhân tài Đất Việt lĩnh vực Công nghệ số 2025.
Nguyễn Tùng Anh, một thành viên trẻ trong nhóm, nhớ lại:“Công việc của nhóm thường kéo dài đến tối muộn, có hôm 8 giờ tối mới hoàn thành lắp đặt thiết bị. Mọi người ngồi lại kiểm tra dữ liệu, chia sẻ niềm vui khi hệ thống hoạt động ổn định. Những khoảnh khắc ấy khiến tất cả càng gắn bó, tin tưởng hơn vào hướng đi của mình”.
Với Tùng Anh, dự án không chỉ là công việc mà là một hành trình học hỏi. “Em học ngành Điện - Điện tử, nhưng khi tham gia dự án, em được tiếp cận thêm nhiều kiến thức như viễn thông, IoT, lập trình, toán học ứng dụng. Nhờ vậy, em hiểu sâu hơn về cách tích hợp công nghệ vào thực tiễn, bổ sung nhiều kỹ năng mà nhà trường chưa dạy”.
Những trải nghiệm đó giúp các kỹ sư Aitogy nhận ra, đằng sau công nghệ là trách nhiệm, tình yêu với mảnh đất nơi mình sống.
TS.Dương Thành Trung cho biết: “Khó khăn lớn nhất là thiết bị phải hoạt động ổn định trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Chúng tôi phải tự nghiên cứu, thử nghiệm nhiều lần để đảm bảo độ bền, độ chính xác, vì chỉ một sai số nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến độ tin cậy của cảnh báo”.
Hệ thống được cấu thành từ nền tảng phần cứng và phần mềm đồng bộ. Phần cứng gồm thiết bị cảm biến, bộ ghi dữ liệu, thiết bị tính toán, điều khiển, cùng bộ phận cảnh báo và nguồn điện năng lượng mặt trời. Phần mềm là “bộ não” của hệ thống, chịu trách nhiệm xử lý, hiển thị dữ liệu, phân tích bất thường, đưa ra cảnh báo theo thời gian thực.
Từng chi tiết kỹ thuật đều hướng đến một mục tiêu duy nhất: bảo vệ con người trước thiên tai. Nhờ vận hành tự động, sử dụng năng lượng mặt trời và truyền dữ liệu từ xa, hệ thống giúp loại bỏ việc phải có nhân sự túc trực ở những vị trí nguy hiểm, đặc biệt trong mùa mưa bão.
Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí vận hành mà còn đảm bảo an toàn cho lực lượng phòng chống thiên tai. So với các hệ thống nhập khẩu, giải pháp của Aitogy có chi phí thấp hơn nhiều lần nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, từ độ bền, độ chính xác đến khả năng hoạt động trong môi trường khắc nghiệt.
Khi mất kết nối Internet, hệ thống tự động lưu trữ dữ liệu, gửi bù khi mạng được khôi phục, đảm bảo thông tin không bị gián đoạn. Các trạm còn tích hợp module chống trộm, cảm biến gia tốc phát hiện rung động hoặc tác động vật lý bất thường, tăng độ an toàn cho toàn bộ thiết bị.
Nhờ vậy, hệ thống có thể giám sát liên tục các khu vực có nguy cơ sạt lở cao, phân tích dữ liệu và phát cảnh báo kịp thời đến chính quyền, người dân, giúp họ chủ động ứng phó, di chuyển an toàn, giảm thiểu thiệt hại. Toàn bộ dữ liệu quan trắc còn được lưu trữ phục vụ nghiên cứu dài hạn, góp phần xây dựng bản đồ nguy cơ thiên tai chính xác hơn cho từng địa phương.

Từ những buổi thử nghiệm đầu tiên trong phòng thí nghiệm nhỏ, “Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” của nhóm nghiên cứu Aitogy đã từng bước đi ra đời sống – nơi nó có thể thực sự cứu người và bảo vệ cộng đồng.
Từ phòng thí nghiệm ra đời sống...
Từ những buổi thử nghiệm đầu tiên trong phòng thí nghiệm nhỏ, “Hệ thống giám sát và cảnh báo sạt lở sớm” của nhóm nghiên cứu Aitogy đã từng bước đi ra đời sống, nơi nó có thể thực sự cứu người và bảo vệ cộng đồng. Đến nay, hệ thống đã được triển khai tại hàng trăm điểm quan trắc trên cả nước: từ hồ Lanh Ra, đập Nha Trinh (Ninh Thuận) đến các vùng có nguy cơ sạt lở cao ở Quảng Ninh, Hòa Bình, và thậm chí được chuyển giao thử nghiệm tại Lào.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhóm đang hợp tác cùng Viện Các Khoa học Trái đất và Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) để mở rộng lắp đặt hệ thống tại các mỏ khai thác có nguy cơ sạt lở cao. Mỗi trạm quan trắc được lắp đặt không chỉ là một điểm dữ liệu mà còn là một “người gác rừng thầm lặng”, ngày đêm theo dõi và cảnh báo những nguy cơ có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Sau Giải thưởng Nhân tài Đất Việt 2025, nhóm bắt đầu bước vào giai đoạn thương mại hóa sản phẩm. “Chúng tôi tin rằng hệ thống đủ tốt, đủ tin cậy để áp dụng rộng rãi”, TS.Dương Thành Trung chia sẻ. “Bước tiếp theo là hoàn thiện các mô-đun, chuẩn hóa quy trình để triển khai cho các địa phương có nguy cơ sạt lở cao”.
Cùng với việc làm chủ công nghệ lõi IoT, nhóm còn mở rộng nghiên cứu sang các lĩnh vực ứng dụng khác như nông nghiệp thông minh, phòng chống thiên tai và tự động hóa robot. Các mô-đun cảm biến và bộ ghi dữ liệu (Data Logger) do họ tự phát triển có thể tái sử dụng trong nhiều bài toán công nghệ khác, tạo nền tảng cho một hệ sinh thái “Make in Vietnam” bền vững.
Đặc biệt, dự án còn chứa đựng một câu chuyện nhân văn hiếm có trong giới nghiên cứu: câu chuyện về hai thế hệ cùng chung đam mê khoa học. TS.Dương Thành Trung, người phụ trách chuyên môn địa chất - địa kỹ thuật và con trai anh, em Dương Hồ Nam - sinh viên Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện cùng làm việc trong nhóm phát triển hệ thống.

TS.Dương Thành Trung và con trai em Dương Hồ Nam tại Lễ trao giải thưởng Nhân tài Đất Việt. 
“Nam là con trai tôi, nhưng trong nhóm, tôi coi con như một đồng nghiệp. Chúng tôi trao đổi công việc bình đẳng, tập trung vào chuyên môn. Việc cùng tham gia phát triển sản phẩm không phải do tình cảm cha con, mà vì Nam thực sự có năng lực và đam mê phù hợp”, TS.Trung chia sẻ.
Anh kể, trong nhiều năm làm nghiên cứu, anh từng hợp tác với không ít học trò và đồng nghiệp, nhưng để tìm được những người “hợp gu” với một dự án đòi hỏi vừa tri thức, vừa kiên nhẫn như thế này không hề dễ. Việc con trai anh cũng lựa chọn đồng hành không chỉ là niềm vui của người cha, mà còn là sự tiếp nối của tinh thần khoa học Việt Nam - dấn thân, bền bỉ, vì cộng đồng.
Với TS.Trung, giá trị lớn nhất của dự án không nằm ở con số hay hợp đồng, mà ở niềm tin:“Công nghệ Việt Nam đã đủ tốt. Điều chúng tôi cần là niềm tin của người Việt với những sản phẩm trong nước làm ra có thể bảo vệ chính người Việt”.
					
          